Các nghệ nhân Mường Vang (Lạc Sơn) giao lưu và hát các làn điệu dân ca Mường tại lễ hội mùa xuân của xứ Mường. Ảnh: HD

Các nghệ nhân Mường Vang (Lạc Sơn) giao lưu và hát các làn điệu dân ca Mường tại lễ hội mùa xuân của xứ Mường. Ảnh: HD

(HBĐT) - Trước tháng 8/1945, đồng dao và hát ru con chiếm vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người Mường, đặc biệt là trẻ em Mường. Mỗi một người Mường từ khi sinh ra cho đến khi trưởng thành, ai cũng trải qua một thời tuổi thơ với đầy ắp kỷ niệm, được nghe tiếng ru: “Uí ui...” “Đập bông bông” của bà, của mẹ, của chị.

 

Đồng dao là các lời hát, câu hát, lối nói có giai điệu, có vần vè thường được trẻ em hát trong lúc chơi đùa, lúc chăn trâu, cắt cỏ, em lớn trông em bé hoặc người lớn trông em bé.

Hát ru con người Mường gọi là: Rằng đều hoặc úi ui, được chia làm hai loại: Rằng đều ban ngày - hát ru ban ngày và Rằng đều ban đêm - hát ru ban đêm. Hát ru ban ngày chủ yếu có làn điệu: Uí ui và U óm...

Hát ru ban đêm có làn điệu: Đập bông bông

Hát ru con của người Mường cũng là những bài đồng dao được phổ nhạc hát ru, dỗ dành cho em bé ngủ, nếu đọc thì thành đồng dao, nếu hát thì thành hát ru. Vì thế, lời đồng dao, lời các bài hát ru con có thể đọc theo vần, điệu và cũng có thể hát được.

Các bài đồng dao Mường khá đa dạng về nội dung và độ dài ngắn không theo niêm luật nào. Có bài ngắn, thậm chí rất ngắn, có thể chỉ một đến hai câu, song cũng có những bài dài. Nội dung thường gắn với đời sống, đồ vật xung quanh, theo quan sát, cảm nhận của các em.

Lời và giai điệu các bài đồng dao của  người Mường cơ bản được chia làm 4 loại:

Một loại chủ yếu được hát trong các trò chơi gắn liền với trò như: đập nàng Khọt, đập nàng Bạn, đu đu - điển điển...

Loại thứ hai chủ yếu được dùng trong hát ru con với mục đích giỗ dành cho con trẻ ngủ. Các bài này thường dài hơn cả. Hình thức diễn xướng khi ôm con vào lòng cho con bú dỗ dành chúng ngủ hoặc bên cánh võng, lúc đưa nôi. Người ta thường hay hát ru cho trẻ ngủ.

Loại thứ ba rất ngắn, đó là các câu đố dân gian. Hình thức nói để đố nhau.

Có một thể loại đi kèm với các câu chuyện truyền miệng dân gian khi kết thường có vài câu nói vần, có thể nói đấy cũng là lối kể chuyện cuối câu chuyện có kết là vài câu đồng dao hoặc hát ru. Đây vừa là dạng kể chuyện, vừa là hát ru mang tính răn dạy hay khuyên nhủ về nhân tình thế thái.

Các thể loại đồng dao này có cách sử dụng, diễn xướng khác nhau và có tính độc lập tương đối  với nhau trong diễn xướng.

Các dân tộc khác như người Kinh gần gũi với người Mường, các bài hát ru được sáng tạo giai điệu dựa trên ý các câu ca dao, nội dung lời thường ngắn. Riêng với người Mường, các bài hát ru chủ yếu được lấy lời từ các bài đồng dao. Các bài hát ru thường dài và có giai điệu đều đều, buồn buồn và rất khó hát cao giọng, hát to, chỉ vừa để dỗ dành cho em bé ngủ.

 Câu đố dân gian có nhiều điều thú vị, không phải tất cả các câu đố đều là đồng dao, song có nhiều câu thực sự là dồng dao như câu đố về con trâu:

- Bốn cái đạp xuống đất (4 chân)

- Hai cái hướng lên trời (hai cái sừng)

- Hai cái bơi phạch phạch (hai tai)

- Một cái đi theo sau (cái đuôi)

Nội dung lời các đồng dao và hát ru con của người Mường thực chất là loại hình văn học dân gian được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, là sáng tạo tập thể của nhân dân. Do vậy, nó mang trong mình những đặc điểm của văn học, phản ánh thế giới xung quanh theo cảm nhận của trẻ thơ, hướng các em biết nhận thực những điều tốt đẹp trong cuộc sống, bồi dưỡng nhân cách và ngôn ngữ và tập tư duy qua các câu đố.

Giai điệu các bài ru con của người Mường thường êm êm, đều đều và man mác buồn, có nội dung lời ru như vẽ ra các hình ảnh, sự việc sống động, kể một câu chuyện hay, để cho các bé thả hồn mình vào đó và  giai điệu hát miên man dần dần dẫn em vào giấc ngủ lúc nào không hay.

“Quả vả trôi bến Đôm

Gặp con rồng bến Trắng...”

Qua sưu tầm và tìm hiểu theo quan điểm cá nhân có thể phân loại nội dung các bài đồng dao và hát ru của người Mường phổ biến có các lại sau:

- Loại mang tính thống kê, tư duy nhảy cóc.

- Loại trình tự mô tả, tường thuật 1 đối tượng hoặc dẫn dắt 1 vấn đề.

 Phần nhiều nội dung các bài đồng dao Mường được tác giả dân gian sáng tạo theo lối tư duy nhảy cóc từ vấn đề này sang vấn đề khác, mang tính thống kê, điểm sự vật, sự việc như đoạn lời bài ru con dưới đây:

Bố thì đi đánh cá

Cô ở nhà thả trâu

Trâu nhỏ ăn đầy bãi cả

Bò lớn ăn đầy bãi to

Bẻ cành cây cơi đi đánh bả cá

Đánh được ba cái tôm

Được vốc tép nhỏ

Tép nhỏ nhảy vào hang

Con hoẵng chạy lên đồi...

Mỗi một hoặc vài ba câu tả một sự việc, sang câu khác nội dung chuyển tả sự việc khác dường như không liên quan gì đến nhau. Tác giả cốt chỉ mượn vần gieo cho có vần điệu, cả bài ru con như một bảng thống kê nhiều sự việc.

Đây là lối tư duy nhảy cóc, các em đang mới ở độ tuổi nhận biết các sự vật, sự việc xung quanh mình, chưa tư duy sâu, kỹ.

Loại hình thứ ba của hát ru con Mường, một số lời ru, lời đồng dao thường gắn với một câu chuyện kể dân gian. Vượt lên trên mục đích ban đầu là ru dỗ dành cho em bé ngủ, gửi gắm trong đó những suy tư về nhân tình thế thái.

Việc hát hay nói đồng dao, hát ru con... để truyền cảm, yêu cầu người hát phải đúng vần điệu, giai điệu, phải hát rõ chữ, hát vang, hát mềm.

Tính vần, điệu: Gieo vần, luyến láy, chơi chữ có nhạc điệu, có thể vừa nói, vừa hát được. Cụ thể như bài hát đồng dao Đập bông bông sau đây:

Đập bông bông... bông

Đập bông bưởi... bưởi

Trái bưởi vàng... vàng

Trái cau chín... chỉn.     

Rõ ràng đây là lối nói vần: Nếu tính mỗi câu là một nhịp 3 từ thì chuyển xuống câu dưới bài đồng dao chỉ là nói vần có nhịp. Song khi câu cuối được ngân dài hơn và thêm một từ đồng âm thành liền chuyển thành có giai điệu (tức là bài hát) ngay.

Ngôn ngữ được sử dụng trong đồng dao và hát ru con của người Mường chủ yếu là sử dụng hình ảnh, hình tượng, giàu hình ảnh, giàu tính biểu cảm.

Ngoài ra các từ tượng thanh cũng được dân gian Mường sử dụng, như trong bài hát đồng dao “Đập Nàng Khót” có 21 câu, phần cuối có 5 câu chủ yếu sử dụng các từ tượng thanh:

Mường bưa bằng vui lắm, vui nhiều

Vui âm âm trống bồng

Vui bông bông trống bạt

Vui khăng khắc trống chầu

Chầu lên thâu đến sáng.

Tại sao người Mường sử dụng nhiều hình ảnh, âm thanh trong ngôn ngữ đồng dao và hát ru con? Như chúng ta biết, các từ tượng hình, tượng thanh chủ yếu là ngôn ngữ dễ liên tưởng từ các hình ảnh trực quan vốn đã hàng ngày quen thuộc trong cuộc sống các em, dễ nhận biết, dễ hiểu. Điều này hoàn toàn phù hợp với tâm lý trẻ em. Lời hát như vẽ lên những bức tranh, hình tượng: Trứng vịt tròn tròn, quả bu bờm lơ lửng, quả bưởi chín vàng,  hình ảnh đàn bò đi ăn đầy đồng bãi... là những hình ảnh thân thuộc các em hàng ngày trông thấy, được tiếp xúc. Nó có tác dụng khơi gợi trí tưởng tượng, tư duy nhẹ nhàng, không trừu tượng hay các sự suy luận lao tâm. Điều này phù hợp với tâm, sinh lý của trẻ em.

Sử dụng ngôn ngữ theo lối đối vần, đối ý, chơi chữ cũng được dân gian sử dụng, tuy số lượng các bài đồng dao, hát ru con theo lối này chiếm tỷ lệ ít hơn.

Trong đời sống người Mường trước tháng 8/1945, trong chế độ cũ đời sống rất khó khăn, nghèo khổ. Bao đời qua đã trở thành thông lệ một năm có hai mùa đói là tháng 3 và tháng 8 âm lịch. Đói ăn đã ảnh hưởng rất nhiều đến việc nuôi dưỡng con trẻ, chúng cũng phải chịu đói,  no như người lớn.

Bài đồng dao “Chơi với con bọ ngựa”:

Con bọ ngựa

Đồi nào đồi có gấu

Núi nào núi có ma

Chỉ cho ta biết với...

Lũ trẻ chơi với con bọ ngựa, song lại là sự lo lắng cho cha mẹ, anh chị đang đi rừng. Trò chơi con trẻ phảng phất nỗi âu lo... Bài đồng dao như một bài học vỡ lòng giáo dục để các em hiểu, hình thành nên nhân cách biết lo lắng, cảm thông cho người thân, gia đình trước những khó khăn trong đời sống.

Tóm lại:

Hát đồng dao và hát ru con của người Mường là loại hình sinh hoạt, diễn xướng văn nghệ dân gian rất thông dụng và phổ biến trong đời sống người Mường.

Hát đồng dao và nội dung các bài đồng dao của người Mường có các loại hình chính, loại hát cầm nhịp, hát mở trò trong các trò chơi của các em nhỏ, loại dùng trong hát ru con, hát đố nhau, kể một câu chuyện đoạn cuối kết bằng các câu đồng dao, hát ru. Mỗi một loại hình có cách diễnm xướng khác nhau.

Phần lời hay nói rộng hơn là nội dung của các bài đồng dao, hát ru con, câu đố dân gian thực chất là một loại hình văn học dân gian nên nó mang trong mình các thuộc tính của văn học. Trong đó, chức năng phản ánh đời sống, giáo dục, bồi dưỡng nhân cách con người, hướng con người tới những điều tốt đẹp hơn trong cuộc sống.

 

 

                                                            Bùi Huy Vọng

                                                (Hương Nhượng - Lạc Sơn)

 

 

Các tin khác


Gặp mặt cơ quan báo chí, xuất bản, văn học nghệ thuật khu vực Trung du, miền núi Bắc Bộ

Chiều 15/4, tại TP Việt Trì, Ban Tuyên giáo T.Ư chủ trì, phối hợp với Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Quân khu 2 và Tỉnh ủy Phú Thọ tổ chức gặp mặt các cơ quan báo chí, xuất bản, văn học nghệ thuật khu vực Trung du, miền núi Bắc Bộ. Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư T.Ư Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo T.Ư chủ trì cuộc gặp mặt.

Tổ chức Tết cổ truyền Bunpimay cho lưu học sinh, sinh viên Lào

Ngày 15/4, Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Hoà Bình và Trường Cao đẳng Kỹ thuật Công nghệ Hoà Bình (TP Hoà Bình) phối hợp tổ chức Tết cổ truyền Bunpimay năm 2024 cho các lưu học sinh, sinh viên (HS, SV) Lào đang học tập tại 2 trường. 

Liên hoan nghệ thuật quần chúng lực lượng vũ trang và thanh niên, học sinh, sinh viên huyện Lạc Thủy

Huyện Lạc Thuỷ vừa tổ chức Liên hoan nghệ thuật quần chúng lực lượng vũ trang và thanh niên, học sinh, sinh viên năm 2024 với chủ đề "Hát mãi khúc quân hành”. Hội diễn thu hút trên 260 diễn viên, nghệ nhân từ 10 xã, thị trấn.

Rộn ràng Lễ rước kiệu về Đền Hùng

Ngày 15/4 (tức mùng 7/3 âm lịch), tại Khu di tích lịch sử Đền Hùng, thành phố Việt Trì (Phú Thọ), Ban Tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2024 tổ chức rước kiệu về Đền Hùng tri ân công đức các Vua Hùng và các bậc tiền nhân đã có công dựng nước.

Nét độc đáo trong lễ hội đình Băng

Đình Băng ở xóm Băng, xã Ngọc Lâu, huyện Lạc Sơn là ngôi đình lớn, thờ thành hoàng chính là Quốc mẫu Hoàng Bà (mẹ đức thánh Tản Viên Sơn), Tản Viên Sơn thánh, ngoài ra còn thờ một số thành hoàng khác: Vua Cả, Vua Hai (thần ở mái đá làng Vành, xã Yên Phú, huyện Lạc Sơn), vua Út, Vua Ả là con gái Quốc mẫu Hoàng Bà. Đình đã được các đời vua thời phong kiến sắc phong nhưng nay thất lạc không còn.

Lan tỏa văn hóa đọc và tình yêu sách trong cộng đồng

Do tác động của công nghệ thông tin, mạng internet, các thiết bị điện tử nên đã ảnh hưởng đến việc đọc của thế hệ trẻ, lấn át văn hóa đọc truyền thống. Sau khi có Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam, các bộ, ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương đã chung tay đẩy mạnh phong trào đọc sách và phát triển văn hóa đọc trở thành hoạt động lớn trong tháng Tư hằng năm nhằm tôn vinh giá trị của sách trong cộng đồng.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục