(HBĐT) - Khi trình tấu thường bắt đầu bằng chiêng Bồng với những nốt nhạc mở đầu được gọi là lên chiêng, dậy chiêng, chiêng gọi. Phương thức trình tấu các bản nhạc cồng chiêng theo kết cấu 4 âm. Theo GS - TS KH Tô Ngọc Thanh thì: “âm nhạc cồng trong sắc bùa Mường, ta thấy tất cả các bài cồng đều được xây dựng trên một cấu trúc cơ bản 4 âm: (Bính - bang - bính - rầm) và các biến thể của nó”: “Bang - bính - bang - rầm hay Bính - bính - bang - bính - bính - rầm”...

 

Cấu trúc  biến âm này được nhân dân gọi là một “đom”. Những nốt đầu, câu đầu bản nhạc được vang lên từng chiếc một ở âm cao và âm trung. Những nốt cuối, câu cuối đoạn nhạc, bản nhạc và hoà thanh thuộc những âm trầm trong dàn chiêng. Chiêng Bồng đảm nhiệm chính phần giai điệu, chiêng chót là chiêng “màu sắc” đánh điểm xuyết (xen vào) phần giai điệu. Chiêng dàm đệm giữ nhịp. ở những dàn chiêng lớn, những bản nhạc khó, phức tạp có thủ pháp phức - điệu thì chiêng Dàm cũng được sử dụng đánh giai điệu.  

Người Mường sáng tạo ra những phương thức đánh chiêng: Tay trái là tay xách chiêng, tay phải cầm dùi để đánh chiêng (có những trường hợp đặc biệt thuận tay trái có thể áp dụng nghịch cách đánh chiêng) nhưng không điển hình. Người Mường sử dụng cách đánh chiêng buông và đánh dùi chiêng vào chính tâm núm chiêng (hoặc chính tâm mặt chiêng không núm) chứ không sử dụng cách đánh bịt chiêng chặn âm hoặc đánh dùi chiêng vào lòng chiêng như những dân tộc khác. Chiêng Mường được treo trên dây gai, dây vố và tay trái người đánh cầm chiêng đưa ra phía trước không được quá mặt hay quá đầu, cách đánh chiêng buông đảm bảo cho âm vực của chiêng được vang xa nhất, rõ ràng nhất. Khi cần âm lượng lớn, độ rung vang xa thì buông lỏng dây, cổ tay xách chiêng cũng thả lỏng dây, mềm mại hơn. Khi cần âm lượng nhỏ lại, độ vang và bồi âm hãm lại, nhỏ đi thì dây chiêng túm nhỏ lại, căng ra, cổ tay cũng căng và nắm chặt dây chiêng   lại. Dùi chiêng được làm bằng gỗ ổi, gỗ sến hay gỗ cây vông, đầu chiếc dùi chiêng phình to ra được bọc vải hoặc da thú mềm. Da bọc dùi thường được lấy từ  da của bộ phận sinh dục các   loài trâu, bò, hươu, nai, dê để khi đánh vào chiêng tiếng  chiêng vang ấm có độ rung,   bồi âm chiêng đều hơn. Dùi chiêng Mường có kích cỡ khác nhau thích hợp với từng chiếc chiêng, từng loại chiêng (chiêng nào dùi đấy). 

Ngoài ra, một số nghệ nhân người Mường sử dụng chiêng thành thạo còn có kỹ thuật xoa bàn tay vào núm chiêng tạo nên âm vang của chiêng rất độc đáo (điển hình như nghệ nhân Bùi Văn Thực - xóm Chăm - phường Thái Bình (TP Hòa Bình); nghệ nhân Bùi Tiến Xô, xã Vĩnh Tiến,  huyện Kim Bôi. Trước khi xoa chiêng lòng bàn tay phải sạch không dính chất nhờn. Tay trái cầm dây cho thân chiêng dựng thẳng đứng, giữ cho chiêng không được chao đảo. Lòng bàn tay phải xoa mạnh vào núm chiêng. Xoa bàn tay theo chiều ngang thân chiêng, không xoa vòng tròn hoặc từ trên xuống, chiếc chiêng có được ma sát sẽ tạo nên tiếng hú, ban dầu tiếng hú nhỏ dần đến to dần rồi rung lên rất to, vang xa. Khi cường độ âm thanh lên đến đỉnh điểm thì bàn tay xoa nhẹ cho âm thanh nhỏ xuống dần, không vội vàng buông bàn tay ra khỏi núm chiêng. Khi cần tiếng chiêng ngắt lại, hãm lại thì tay cầm dùi đánh chiêng miết vào núm chiêng, hất ngược lên hoặc miết xuống. 

Phương thức trình tấu, trình diễn âm nhạc chiêng Mường hết sức phong phú, đa dạng: ở trạng thái tĩnh (ngồi hoặc đứng tại chỗ) hay trạng trái động (tiến lên, lùi xuống) theo đội hình hàng ngang, hàng dọc, đội hình vòng cung hoặc đi vòng tròn... Chiêng được sử dụng trình tấu ở trạng thái tĩnh hay động linh hoạt tùy theo yêu cầu nội dung của nghi lễ, buổi lễ quyết định. Từ nhạc chiêng, nhạc lễ gắn với công việc lễ nghi, nghi thức cụ thể như vậy mà người Mường đã sáng tạo cho mình một phương thức trình diễn chiêng ở thể tĩnh, đứng hoặc ngồi trong phạm vi một khoang nhà, một mảnh sân... và ở thể động, đi khắp khoang nhà, trên các nẻo đường làng xóm, đồng ruộng, dốc núi. Ra sông, ra suối đánh cá, tiễn đưa linh hồn người chết về nơi chín suối... Chiêng sử dụng gọi mẹ khi đứa trẻ khát sữa. Khi mẹ đi làm, con ở nhà với ông, bà, khi con đói, khát đòi ăn ông, bà hoặc người nhà lấy chiêng treo trên vách nhà sàn lên cửa voóng (cửa số nhà sàn) gióng lên 1 hồi chiêng lại dùi 3 tiếng. Người mẹ ở ngoài vườn, ngoài đồng nghe được tiếng chiêng gọi mẹ đã vội về cho con bú. Chiêng sử dụng trong lễ cưới, hỏi lúc đón dâu, đón rể (chiêng nhà trai phải lớn hơn và có âm trầm hơn chiêng nhà gái) và khi mở tiệc mừng, uống rượu cần, hát đối đáp trong lễ cưới dàn nhạc chiêng liên tục trình tấu những câu nhạc, bản nhạc vui, nhiều khi náo nhiệt hoặc nhịp nhàng đệm cho hát thường rang, hát ví (hát đối giao duyên), đánh điểm âm hòa tấu cùng dàn nhạc dân tộc truyền thống của người Mường. Chiêng sử dụng trong lễ hội. Dân tộc Mường tỉnh Hòa Bình có tới 36 lễ hội lớn, trong đó, 24 lễ hội có sử dụng âm nhạc chiêng. Phương thức trình tấu, trình diễn chiêng ở đây được chia ra làm ba phần: Phần đầu, dàn chiêng tấu bản nhạc đi đường hoặc đi đường đón khách. Đội hình xếp thành một hàng dọc đi từ trong đường làng ra trung tâm lễ hội. Phần hai, dàn chiêng tấu các bài chầm khầm, vào hội, bài dâng oản, bài dâng rượu, bài hoốc mưa, bài mừng cơm mới và bài bôông trắng bôông vàng. Dàn chiêng vừa đi vòng tròn xung quanh cột cờ hoặc cây nêu vừa trình tấu âm nhạc chiêng. Phần ba, dàn chiêng lại xếp thành một hàng vừa đi, vừa tấu những bài chiêng đi đường, bài bôông trắng, bôông vàng, bài đi khắp đường làng. Ngoài ra, chiêng còn được sử dụng trong săn bắt thú rừng, lễ mừng nhà mới, trong tế thần, tang lễ, hội sắc bùa. ở mỗi công việc khác nhau, phương thức trình tấu, trình diễn chiêng Mường có cách thể hiện khác nhau.

                                                                         

                                                                       H.L (TH)  

 Bài 7: Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể chiêng Mường

 

 

Các tin khác


119 cán bộ, công chức, viên chức được bồi dưỡng tiếng dân tộc Mường

Trường Cao đẳng Sư phạm Hòa Bình vừa tổ chức bế giảng lớp bồi dưỡng và cấp chứng chỉ tiếng dân tộc Mường cho cán bộ, công chức, viên chức khóa I, II năm 2023.

Huyện Kim Bôi đẩy mạnh phong trào xây dựng đời sống văn hoá

Hưởng ứng phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, những năm qua, các cấp, các ngành, xã, thị trấn trên địa bàn huyện Kim Bôi đã cụ thể hóa bằng các hoạt động thiết thực, hiệu quả, góp phần xây dựng tinh thần đoàn kết, giúp nhau giảm nghèo bền vững, xây dựng nếp sống văn minh, môi trường văn hóa lành mạnh, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

Tết Nhảy - nghi lễ truyền thống của người Dao

Đồng bào dân tộc Dao trong tỉnh gìn giữ được nhiều bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc mình, nhất là trong nghi lễ, tín ngưỡng. Trong đó, Tết Nhảy là nghi lễ quan trọng bậc nhất có từ lâu đời, phản ánh sinh động đời sống tín ngưỡng của người Dao.

Lưu giữ giá trị nền “Văn hóa Hòa Bình” nổi tiếng thế giới

Hoà Bình là vùng đất cổ, với các dải núi đá vôi chạy dọc theo hướng Đông Nam, song song với dải Trường Sơn ở phía Tây đã tạo ra nhiều bồn địa, thung lũng với hệ động, thực vật phong phú. Ngay từ thời tiền sử, con người đã sớm sinh tụ trên mảnh đất này, để lại một nền văn hóa nổi tiếng thế giới - "Văn hóa Hòa Bình" (VHHB).

Du Xuân trẩy hội Bồng Lai

Tọa lạc tại chân núi Đầu Rồng thuộc khu 3, thị trấn Cao Phong (Cao Phong), đền Bồng Lai (còn gọi là Đền Thượng Bồng Lai) nằm trong quần thể di tích quốc gia danh lam thắng cảnh hang động núi Đầu Rồng. Cùng với đền Đông Sơn nằm gần kề, ngôi đền đón người dân và du khách nô nức đến dâng hương, vãn cảnh dịp đầu năm.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục