Nhờ Đảng, Bác Hồ, ngày nay, con em các dân tộc Mường, Kinh, Tày, Thai...đã có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; được học tập, rèn luyện trong các trường học có chất lượng. ảnh: Học sinh trường PTDTNT THPT tỉnh trong một buổi học.

Nhờ Đảng, Bác Hồ, ngày nay, con em các dân tộc Mường, Kinh, Tày, Thai...đã có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; được học tập, rèn luyện trong các trường học có chất lượng. ảnh: Học sinh trường PTDTNT THPT tỉnh trong một buổi học.

(HBĐT) - Trải qua các triều đại từ Lý, Trần, Lê, Mạc, Lê -Trịnh cho đến đầu Nguyễn (Gia Long), mặc dù có sự thay đổi địa danh hành chính của vùng đất Hòa Bình, đi liền theo đó là những thay đổi của những chức quan hành chính nhưng ở cấp cơ sở các mường (vùng) và các sách, động của người Mường, Thái và một số dân tộc thiểu số khác cư trú thuộc Hòa Bình vẫn duy trì chế độ xã hội cổ truyền riêng biệt. Các tù trưởng (thổ tù) họ Xa, họ Hà vẫn nối đời làm tạo cai quản châu Đà Bắc, Mai Châu. ở các vùng Mường Bi, Vang, Thàng, Động, các tù trưởng kế tiếp duy trì chế độ nhà lang cai quản trong vùng; làm nghĩa vụ của các thổ tù đối với Nhà nước phong kiếnThiết chế xã hội cổ truyền của người Mường, người Thái (cư dân sinh sống lâu đời nhất tại Hòa Bình) có thể được coi là thiết chế xã hội cổ truyền điển hình trên vùng đất này

 

Tổ chức xã hội Mường cổ truyền từng tồn tại nhiều tên gọi khác nhau, nhưng cách gọi chế độ nhà lang của cố phó giáo sư Từ Chi vừa lột tả xác thực, vừa bao quát tổ chức xã hội Mường truyền thống trước khi thực dân Pháp áp đặt ách thống trị lên vùng Mường Hòa Bình. Chế độ nhà lang có khởi nguồn sâu xa từ trong lịch sử xã hội dân tộc Mường cổ ở Hòa Bình.

   

Trong tổ chức xã hội Mường cổ - nhà lang trước kia tư phân thành 2 tầng lớp, không chuyển hóa lẫn nhau về mặt con người bao gồm, đẳng cấp thống trị nhà lang: tập hợp thành những tông tộc phụ hệ. Mỗi tông tộc như vậy chiếm giữa một mường. Đẳng cấp bị trị là mol (người) hoặc theo tiếng Mường: Mol mương (người ở trong Mường). 

Tổ chức bộ máy thống trị do nhà lang thiết lập trong từng mường, từng làng thuộc chiềng hay Mường cũng phỏng theo tổ chức tông tộc từ xa xưa truyền lại: con trai trưởng trong chi nhánh trưởng của tông tộc nhà lang trên danh nghĩa được quản toàn mường gọi là lang cun. Các con trưởng của chi nhánh thứ thì quản từng làng hay cụm làng ở ngoài chiềng gọi là lang tạo (lang tạo - lang đạo). Lang tạo phụ thuộc vào lang cun. Trong bộ máy nhà lang, lang cun và lang tạo đều có một số người giúp việc gọi là ậu (có ậu cả và ậu em, chức ậu không được cha truyền, con nối). Thực chất, ậu là những chức việc, tay chân đắc lực nhất của bộ máy nhà lang mường Hòa Bình; ậu là những người ở trong mường do lang chọn ra. Những ậu ở vị trí cao nhất được gọi là ậu eng (ậu anh, ậu cả); ậu ở vị trí thấp hơn ậu ún (ậu em, ậu con). Trong xã hội Mường cổ truyền chủ yếu gồm 2 đẳng cấp: tông tộc nhà lang và tầng lớp là những người dân ở trong Mường. Sự hình thành 2 tầng lớp này từ lâu đời, cố định, dường như không chuyển đổi cho nhau. Lang cun hay lang tạo thì đời này sang đời khác họ vẫn là lang. Sự thay đội phận lang là bất di bất dịch. Đối với người dân ở trong vùng, thân phận càng không thể thay đổi chuyển dịch. 

Tìm hiểu bức tranh đẳng cấp xã hội Mường truyền thống sẽ giúp mở ra cách cửa để đi vào tìm hiểu sâu hơn chế độ nhà lang. Chế độ nhà lang tồn tại trên cơ sở xã hội thừa nhận tập quán truyền thống cha truyền con nối được cố định thành luật lệ mường truyền đời. Về mặt kinh tế, chế độ nhà lang dựa vào quyền chiếm hữu và khai thác ruộng lang, nhà lang thể hiện tương đối đầy đủ quyền lực thống trị của mình ở từng mường. Trong lịch sử, mỗi mường trước kia đều do một chúa đất là lang cun thống trị. Luật mường do nhà lang đặt ra, dân trong mường phải thi hành. Luật lệ ban đầu có thể bắt nguồn từ tập quán của xã hội mường cổ truyền. Dần dần, do ảnh hưởng giáo hóa của triều đình, đặc biệt từ thời Hồng Đức (1470 -1497) trở đi và do sự phân hóa ngày càng sâu sắc giữa đẳng cấp nhà lang thống trị và dân bị trị trong mường khiến tập quán phát bất thành văn (xâu, nõ) được nâng lên thành luật lệ. Tuy nhiên, những văn bản đó hiện nay đều đã thất lạc, chỉ còn nghe nói đến tục lệ xưa ở mường hoặc một vài ước thúc giữa nhà lang và dân ở trong mường ghi trên giấy cũ. Luật lệ nhà lang đặt ra nhằm bảo đảm quyền thống trị tuyệt đối của nhà lang đối với toàn bộ dân trong mường. Từ thượng ngọn cây, hạ ngọn cỏ đều thuộc về nhà lang. Luật lệ cũng để khẳng định thứ bậc trong bộ máy cai trị của dòng họ lang, quyền lợi chủ yếu mà lang cun, lang đạo được hưởng và phần trách nhiệm thứ yếu đối với nhân dân. Luật lệ quy định: quyền thống trị mường thuộc về lang cun; các em trai dòng thứ nhà lang làm phụ đạo (phụ tạo), giúp lang cun-anh cả dòng trường gián tiếp cai trị dân mường, thông qua các ậu. Qua luật lệ truyền khẩu và thành văn, anh em nhà lang được hưởng rất nhiều đặc quyền, đặc lợi (sự phục dịch của người dân về nhân lực, vật lực  trong đám cưới, đám tang, làm nhà, giỗ chạp của nhà lang).  

Như vậy, luật lệ Mường-luật lệ nhà lang thể hiện khá điển hình sự thống trị áp bức của đẳng cấp nhà lang đối với người dân Mường. Những người nông dân, sống lệ thuộc chặt chẽ vào nhà lang, đời này qua đời khác chưa thoát ra được. Mặc dù sống trong chế độ nhà lang bất công nhưng sự phản kháng chỉ xảy ra lẻ tẻ, tự phát như nhiều người Mường bỏ mường đi tìm đất mới ở một vài vùng lân cận hoặc nhân dân tập trung phản đối lang hiện hành thay bằng lang khác. Song cuộc đấu tranh của nhân dân chưa quyết liệt tới mức đánh đổ hoàn toàn chế độ nhà lang như cách mạng Tháng 8/1945.

 

(còn nữa)  

Bài 9: Người dân Hòa Bình chống ách phong kiến và tham gia đánh giặc phương Bắc

 

                                                                  Bùi Văn (tổng hợp)

 

 

Các tin khác


Thủy điện Hòa Bình - niềm tự hào công trình thế kỷ

(HBĐT) - Xuyên suốt quá trình 135 năm thành lập tỉnh và 30 năm tái lập tỉnh, công trình thủy điện Hòa Bình như một dấu ấn đáng tự hào, ghi dấu mốc son chói lọi trong bản trường ca chinh phục sông Đà, góp sức xây dựng, phát triển quê hương, đất nước.

Những nét khái quát về sự hình thành tỉnh Hòa Bình

(HBĐT) - Hòa Bình là tỉnh thuộc tiểu vùng Tây Bắc của vùng trung du và miền núi Bắc Bộ, có vị trí quan trọng, chiến lược về kinh tế, chính trị, AN-QP... Tỉnh là nơi có nền Văn hoá Hòa Bình nổi tiếng - cái nôi văn hoá của người Việt cổ.

Tự hào cuộc khởi nghĩa Tổng Kiêm - Đốc Bang (1909 - 1910)

(HBĐT) - Hòa Bình là một tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Bắc của Tổ quốc, với truyền thống yêu nước, ngay từ khi thực dân Pháp đặt ách đô hộ tại đây, Nhân dân Hòa Bình đã tổ chức nhiều cuộc nổi dậy chống thực dân và chế độ lang đạo hà khắc. Trong dòng chảy lịch sử hào hùng 135 năm thành lập tỉnh, cuộc khởi nghĩa Tổng Kiêm - Đốc Bang (1909 - 1910) là một mốc son chói lọi về lòng yêu nước của Nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình.

Đảng bộ tỉnh - những mốc son lịch sử

(HBĐT) - Với truyền thống vẻ vang trong quá trình xây dựng và phát triển, Đảng bộ, Nhân dân các dân tộc trong tỉnh bằng những hành động, việc làm cụ thể, nắm bắt các cơ hội phát triển, trách nhiệm, nỗ lực thi đua thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, xây dựng tỉnh phát triển nhanh, bền vững.

Hòa Bình giai đoạn từ năm 2015 đến nay - những dấu ấn tự hào

(HBĐT) - Từ năm 2015 đến nay, với sự đoàn kết thống nhất, cùng nỗ lực vượt bậc của toàn tỉnh, Hòa Bình tiếp tục thu được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực KT-XH, QP-AN, xây dựng hệ thống chính trị. Kinh tế tăng trưởng khá và bền vững, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; các ngành, lĩnh vực sản xuất đều phát triển. Hoạt động xúc tiến đầu tư trong giai đoạn này được đẩy mạnh, môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện; kết cấu hạ tầng kỹ thuật được đầu tư, quan tâm với nhiều công trình quan trọng. Hoạt động đối ngoại được mở rộng.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục