(HBĐT) - Sau 1/4 thế kỷ tái lập tỉnh, từ chỗ giao thông đi lại hết sức khó khăn, đến nay, hạ tầng GTVT đã có bước phát triển vượt bậc, từng bước hiện đại, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu đi lại, tiêu thụ sản phẩm, lưu thông hàng hóa, thu hút đầu tư, xóa đói - giảm nghèo, tạo liên kết giữa các vùng miền, thúc đẩy phát triển KT-XH.

 

Khi tái lập tỉnh, hệ thống giao thông trong tỉnh khó khăn, thiếu thốn, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển KT-XH. Tổng số km đường bộ thời điểm đó có 2.431 km, trong đó, QL có 169 km, đường 229 có 186 km, đường tỉnh 180 km, đường huyện, liên xã, liên thôn 1.389 km. Đáng chú ý, phần lớn là đường đất với 1.835,5 km; mặt đường đá dăm nhựa có 204 km; đường đá dăm + cấp phối có 327,5 km, mặt đường bê tông xi măng 64 km. Giao thông nông thôn hết sức khó khăn, toàn tỉnh còn 21 xã vùng cao, vùng sâu chưa có đường đến trung tâm. Nhân dân những xã này đi lại chủ yếu qua hệ thống đường mòn dân sinh bị chia cắt nhiều đoạn qua khe, suối, lạch; về mùa mưa thường xuyên bị tắc nghẽn. Vận tải đường sông trên 2 tuyến sông Đà dài hơn 90 km và sông Bôi dài hơn 30 km có khoảng 100 phương tiện, chủ yếu là thuyền trọng tải nhỏ từ 5- 10 tấn. Phương tiện vận chuyển đường bộ chủ yếu là xe của Tổng Công ty xây dựng thủy điện sông Đà, xe chuyên dùng của các đơn vị, xí nghiệp trong tỉnh và xe khách của Công ty vận tải Hòa Bình với tổng số 1.921 chiếc.

 

Sau 25 tái lập tỉnh, đến nay “bộ mặt” giao thông của tỉnh có bước phát triển vượt bậc. Toàn tỉnh đã có 6.236 km đường bộ, tăng hơn 2,5 lần so với năm 1991. Đến nay đã bê tông hóa, nhựa hóa 301,14 km quốc lộ, đạt 100%, so với khi vừa tái lập tỉnh tăng 72,01 km/2 tuyến. Kết cấu mặt đường đá dăm láng nhựa, cấp phối với bề rộng mặt đường 3,5m, bề rộng nền đường 5m được thay thế dần bằng mặt đường bê tông nhựa với bề rộng mặt đường từ 5,5 m, bề rộng nền đường từ 7,5 m trở lên. Đường 229 có 186,3 km, tỷ lệ bê tông hóa, nhựa hóa đạt 98,3%. Từ một tỉnh có mạng lưới giao thông thưa thớt, hệ thống đường tỉnh ít, ngắn, đến nay đã có 21 tuyến đường tỉnh với 439,136 km, trong đó 97,1% số km đường đã được bê tông hóa, nhựa hóa. Đường huyện có 686,689 km, tỷ lệ bê tông hóa, nhựa hóa đạt 72%. Đường đô thị có 83,1 km, bê tông hóa, nhựa hóa đạt 99,6%. Đường chuyên dùng có 21,05 km, tỷ lệ bê tông hóa, nhựa hóa đạt 71,2%. Đường nội thị có 202,36 km, bê tông hóa, nhựa hóa đạt 82%. Các tuyến đường được nâng cấp, cải tạo đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu giao lưu, phát triển KT-XH của tỉnh. Điển hình là con đường dài nhất tỉnh - đường 433 từ thành phố Hòa Bình đến xã Đồng Nghê (Đà Bắc) dài 90 km được xây dựng từ năm 1965 đã được trải nhựa, tạo điều kiện thuận lợi cho bà con vùng sâu, xa huyện Đà Bắc giao lưu, phát triển KT-XH. Tuyến QL 6A đã được nâng cấp, cải tạo, mở rộng, thảm bê tông nhựa mịn màng 33 km đường cũ đoạn Xuân Mai - thành phố Hòa Bình. Tuyến đường Hòa Lạc - thành phố Hòa Bình đoạn qua tỉnh dài 19,3 km đang được khẩn trương thi công, dự kiến đưa vào sử dụng trong năm nay, hứa hẹn mở ra cơ hội giao thương, thúc đẩy phát triển đô thị, du lịch, dịch vụ cho tỉnh. Các tuyến QL như: 12 B, 21 A, 12 B được cải tạo, nâng cấp, mở rộng đóng vai trò tiên phong thúc đẩy phát triển KT-XH các địa phương. Đặc biệt, năm 2002, tuyến đường Hồ Chí Minh có 62 km đi qua địa bàn tỉnh được đầu tư xây dựng đã góp phần quan trọng về mặt KT-XH, AN-QP đối với cả nước và tỉnh ta. Bên cạnh đó, hệ thống giao thông trục chính của thành phố Hòa Bình - trung tâm chính trị - hành chính - kinh tế - văn hóa - xã hội của tỉnh ngày càng hoàn thiện với những con đường mới mở và nâng cấp như: đường Trần Hưng Đạo, đường Chi Lăng kéo dài, đường Thịnh Lang, đường Trương Hán Siêu, đường Trần Quý Cáp và đường kè hai bờ sông Đà. Hệ thống cầu trên các QL, tỉnh lộ cũng được sửa chữa và xây mới, có tải trọng lớn hơn. Trong đó phải kể tới việc khánh thành cầu Hòa Bình cuối năm 2000, dài hơn 500 m nối liền hai bờ sông Đà đáp ứng niềm mơ ước sau bao năm của nhân dân các dân tộc tỉnh nhà.

 

Cùng với phát triển hệ thống QL, tỉnh lộ, giao thông nông thôn được chú trọng phát triển. Nhờ làm tốt công tác tham mưu, tuyên truyền, vận động nên dù nguồn kinh phí ít ỏi nhưng được sự ủng hộ của nhân dân nên trong những năm qua từ 2.771 km đường giao thông nông thôn trung tâm xã đến các xóm và đường liên thôn xóm năm 2003, đến nay đã phát triển thành 4.316 km đường giao thông nông thôn, tăng 1.545 km. Tỷ lệ cứng hóa đường giao thông nông thôn từ trung tâm xã đến các xóm và đường liên thôn xóm năm 2003 là 71 km tương ứng là 2,7%, đến nay đã tăng lên 1.933 km, tương ứng 44,78% tổng số km hiện có. Cụ thể, đường xã, liên xã 1.470,15 km, trong đó bê tông hóa, nhựa hóa 51%. Đường trục thôn, xóm 2.846,02 km đã nhựa hóa, cứng hóa 42%. Đặc biệt, hệ thống đường giao thông nông thôn đã phủ kín tỉnh, đường ô tô đến khắp các xã vào năm 2005 và hiện nay đến phần lớn các xóm, bản kể cả xóm đồng bào Dao, Mông ở vùng núi cao góp phần đẩy nhanh tiến trình CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, thúc đẩy KT-XH phát triển.

 

Lực lượng vận tải cũng không ngừng phát triển, đáp ứng tốt nhu cầu đi lại, vận tải, phát triển KT-XH. Từ chỗ phương tiện vận tải chủ yếu là thô sơ, đến nay cả tỉnh đã có trên 12 nghìn ô tô chuyên chở hàng hóa, hành khách. Toàn tỉnh có 125 tuyến vận tải hành khách, 11 doanh nghiệp kinh doanh taxi và phát triển được 3 tuyến xe buýt nối hầu hết các tuyến đường huyết mạch trong tỉnh với thời gian khai thác 16 giờ/ngày. Giao thông đường thủy đã có trên 900 phương tiện vận tải đường sông với năng lực vận tải lớn, tốc độ cao, đáp ứng được nhu cầu vận tải hàng hóa của nhân dân. (Còn nữa)

 

                                                                  

 

                                                                                   Vũ Tùng (TH)

Các tin khác


Thủy điện Hòa Bình - niềm tự hào công trình thế kỷ

(HBĐT) - Xuyên suốt quá trình 135 năm thành lập tỉnh và 30 năm tái lập tỉnh, công trình thủy điện Hòa Bình như một dấu ấn đáng tự hào, ghi dấu mốc son chói lọi trong bản trường ca chinh phục sông Đà, góp sức xây dựng, phát triển quê hương, đất nước.

Những nét khái quát về sự hình thành tỉnh Hòa Bình

(HBĐT) - Hòa Bình là tỉnh thuộc tiểu vùng Tây Bắc của vùng trung du và miền núi Bắc Bộ, có vị trí quan trọng, chiến lược về kinh tế, chính trị, AN-QP... Tỉnh là nơi có nền Văn hoá Hòa Bình nổi tiếng - cái nôi văn hoá của người Việt cổ.

Tự hào cuộc khởi nghĩa Tổng Kiêm - Đốc Bang (1909 - 1910)

(HBĐT) - Hòa Bình là một tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Bắc của Tổ quốc, với truyền thống yêu nước, ngay từ khi thực dân Pháp đặt ách đô hộ tại đây, Nhân dân Hòa Bình đã tổ chức nhiều cuộc nổi dậy chống thực dân và chế độ lang đạo hà khắc. Trong dòng chảy lịch sử hào hùng 135 năm thành lập tỉnh, cuộc khởi nghĩa Tổng Kiêm - Đốc Bang (1909 - 1910) là một mốc son chói lọi về lòng yêu nước của Nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình.

Đảng bộ tỉnh - những mốc son lịch sử

(HBĐT) - Với truyền thống vẻ vang trong quá trình xây dựng và phát triển, Đảng bộ, Nhân dân các dân tộc trong tỉnh bằng những hành động, việc làm cụ thể, nắm bắt các cơ hội phát triển, trách nhiệm, nỗ lực thi đua thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, xây dựng tỉnh phát triển nhanh, bền vững.

Hòa Bình giai đoạn từ năm 2015 đến nay - những dấu ấn tự hào

(HBĐT) - Từ năm 2015 đến nay, với sự đoàn kết thống nhất, cùng nỗ lực vượt bậc của toàn tỉnh, Hòa Bình tiếp tục thu được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực KT-XH, QP-AN, xây dựng hệ thống chính trị. Kinh tế tăng trưởng khá và bền vững, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; các ngành, lĩnh vực sản xuất đều phát triển. Hoạt động xúc tiến đầu tư trong giai đoạn này được đẩy mạnh, môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện; kết cấu hạ tầng kỹ thuật được đầu tư, quan tâm với nhiều công trình quan trọng. Hoạt động đối ngoại được mở rộng.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục