Tiếp tục chương trình Kỳ họp, chiều 9/5, Quốc hội nghe Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số và thảo luận về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật này.
Quang cảnh phiên họp chiều 9/5.
Dự thảo Luật Công nghiệp
công nghệ số gồm 7 Chương với 57 Điều, quy định về công nghiệp công nghệ số. Luật
này không quy định về hoạt động công nghiệp công nghệ số chỉ phục vụ mục đích
quốc phòng, an ninh, hoạt động cơ yếu để bảo vệ thông tin bí mật nhà nước. Luật
này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước tham gia hoặc có
liên quan đến công nghiệp công nghệ số tại Việt Nam.
Báo cáo tóm tắt một số vấn đề lớn trong giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo
Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy cho biết,
đối với quản lý trí tuệ nhân tạo, có ý kiến bổ sung nguyên tắc quản lý rủi ro,
có biện pháp bảo đảm để thúc đẩy, phát triển, ứng dụng hệ thống trí tuệ nhân
tạo (AI) trong các ngành, lĩnh vực và giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết; có quy
định về sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm sử dụng AI.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, dự thảo Luật đã quy định về AI theo hướng
thúc đẩy nghiên cứu, phát triển, ứng dụng AI vào cuộc sống; quản lý rủi ro và
lấy con người làm trung tâm; quy định quản lý đối với hệ thống AI rủi ro cao,
hệ thống tác động lớn và không đặt yêu cầu quản lý đối với hệ thống trí tuệ
nhân tạo không rủi ro cao và giao Chính phủ quy định chi tiết phù hợp thực tiễn
quản lý ngành, lĩnh vực.
Nguyên tắc quản lý rủi ro này được xây dựng trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc
kinh nghiệm quốc tế và phù hợp thực tiễn Việt Nam. Đồng thời, dự thảo Luật cũng
bổ sung quy định về Chiến lược nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI nhằm thúc
đẩy, phát triển và ứng dụng AI hiệu quả, bền vững và có trách nhiệm trong các
ngành, lĩnh vực, ông Lê Quang Huy cho hay.
Về ý kiến đề nghị cần có quy định về sở hữu trí tuệ đối với AI, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội nhận thấy pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam quy định quyền
sở hữu trí tuệ chỉ có thể thuộc về tổ chức, cá nhân (con người) sở hữu hoặc
trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm, sáng chế,… chứ không áp
dụng đối với AI.
Hiện nay, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) và nhiều quốc gia vẫn đang
tiếp tục nghiên cứu vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm do AI
tạo ra, chưa chính thức luật hóa hoặc đưa vào các công ước quốc tế. Do đó, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội sẽ chỉ đạo nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy
định về vấn đề nêu trêntrong Luật Sở hữu trí tuệ vào thời điểm phù hợp.
Theo ông Lê Quang Huy, có ý kiến cho rằng cần
xây dựng một khung pháp lý tài sản số quy định chi tiết các vấn đề cốt lõi, xác
định ngay các nội dung phải thực hiện (quyền tài sản, quyền sở hữu, giao dịch,
bảo mật, trách nhiệm, giải quyết tranh chấp, quản lý rủi ro)..., vừa đảm bảo
tính thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành và thông lệ quốc tế, đồng thời
thiết lập cơ chế quản lý, giám sát, phòng ngừa rủi ro; làm rõ tài sản số có thể
sử dụng cho mục đích trao đổi hoặc đầu tư hay không; đề nghị làm rõ nội hàm,
tiêu chí phân loại tài sản số.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, theo dự thảo Luật, tài sản
số đã được xác định là tài sản theo pháp luật dân sự hiện hành. Quyền tài sản,
quyền sở hữu, giao dịch, bảo mật, trách nhiệm, giải quyết tranh chấp, quản lý rủi
ro … đã được điều chỉnh theo quy định của pháp luật hình sự, pháp luật về phòng
chống tham nhũng, chống rửa tiền và pháp luật có liên quan. Do vậy, nhằm bảo đảm
tính khả thi, linh hoạt và ổn định của hệ thống pháp luật, dự thảo Luật chỉ quy
định mang tính nguyên tắc và giao Chính phủ quy định cụ thể cho phù hợp với thực
tiễn phát triển.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật đã quy định
cụ thể hơn một số nội dung cốt lõi trong quản lý nhà nước về tài sản số và giao
Chính phủ quy định chi tiết về thẩm quyền, quản lý đối với tài sản số trong
lĩnh vực chuyên ngành phù hợp với điều kiện thực tiễn.
Đối với ý kiến cho rằng, cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hiện
đang được quy định tại dự án Luật Công nghiệp công nghệ số và dự án Luật Khoa học,
công nghệ và đổi mới sáng tạo đều hướng tới đối tượng thử nghiệm là công nghệ,
sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới, đề nghị rà soát để bảo đảm tính thống
nhất trong hệ thống pháp luật.
Về nội dung này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo như
sau: Dự thảo Luật công nghiệp công nghệ số đã có các quy định về nguyên tắc,
tiêu chí, thẩm quyền, quyền, trách nhiệm, bảo vệ người sử dụng và miễn trừ
trách nhiệm trong thử nghiệm sản phẩm, dịch vụ ứng dụng công nghệ số… và giao
Chính phủ quy định chi tiết để thể chế hóa đầy đủ chủ trương của Đảng tại Nghị
quyết số 57-NQ/TW. Tuy nhiên, dự án Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến và thông qua tại Kỳ họp thứ 9 cũng có quy định
về nội dung này với mục đích để áp dụng cho nhiều lĩnh vực khác nhau.
Ông Lê Quang Huy cho biết, để bảo đảm tính thống nhất của các
quy định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo
nghiên cứu tiếp thu ý kiến các đại biểu Quốc hội và chỉnh lý Luật Khoa học,
công nghệ và đổi mới sáng tạo theo hướng quy định khung chung về cơ chế thử
nghiệm có kiểm soát tại. Trên cơ sở các quy định khung này, cơ chế thử nghiệm
có kiểm soát đối với sản phẩm, dịch vụ ứng dụng công nghệ số sẽ được quy định cụ
thể, chi tiết hơn, bảo đảm thống nhất.