Đồng chí Nguyễn Tiến Sinh, Phó trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh phát biểu ý kiến thảo luận tại Hội trường.

Đồng chí Nguyễn Tiến Sinh, Phó trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh phát biểu ý kiến thảo luận tại Hội trường.

(HBĐT) - Ngày 3 – 4/6, Quốc hội thảo luận tại Hội trường về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Các ý kiến đều nhất trí với sự cần thiết phải sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Tham gia đóng góp vào việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đại biểu Nguyễn Tiến Sinh, Đoàn ĐBQH tỉnh Hòa Bình phát biểu:

 

Nước ta là một quốc gia thống nhất, đa dân tộc gồm 54 dân tộc cùng chung sống, trong đó dân tộc kinh chiếm đa số với 85,7% dân số, còn lại là các dân tộc thiểu số với trên 12,2 triệu người, chiếm tỉ lệ 14,3%. Với lịch sử phát triển hàng ngàn năm, cộng đồng các dân tộc Việt Nam luôn sát cánh bên nhau cùng xây dựng và bảo vệ đất nước. Chính vì vậy, từ khi có Đảng lãnh đạo dành được chính quyền về tay nhân dân, Đảng ta rất coi trọng thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc. Thể hiện chính sách đó, Hiến pháp nước ta qua các thời kỳ luôn khẳng định chính sách đoàn kết dân tộc. Hiến pháp năm 1992 được Quốc hội khoá VIII thông qua (sửa đổi, bổ sung vào năm 2001, tại kì họp thứ 10 Quốc hội khoá X) là sự kế thừa của các bản Hiến pháp trước đó, đã cho thấy giá trị, vai trò và ý nghĩa to lớn vào sự nghiệp phát triển mạnh mẽ của đất nước, các quyền cơ bản của công dân nói chung, của đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng luôn được đảo bảo, đời sống tinh thần vật chất của đồng bào các dân tộc thiểu số không ngừng được cải thiện nâng cao.

 

Về chính trị, đồng bào các dân tộc bình đẳng về quyền làm chủ đất nước, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, được thực hiện quyền tham chính của mình thông qua thực hiện dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp qua bầu cử và ứng cử vào Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Số lượng đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là người dân tộc thiểu số ngày càng tăng.

 

Về kinh tế, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách hỗ trợ để đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo. Cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội phục vụ sản xuất và sinh hoạt được đầu tư. Tỉ lệ hộ nghèo vùng dân tộc thiểu số giảm nhanh, khoảng cách về mức sống ngày càng thu hẹp.

 

Về giáo dục, y tế, văn hoá xã hội các dân tộc thiểu số được nhà nước tạo điều kiện được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc, nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc mình, được hưởng các chính sách ưu tiên đặc biệt nhằm tăng cơ hội tiếp cận với nền giáo dục quốc dân. Người dân tộc thiểu số được hưởng các quyền ưu tiên về chăm sóc sức khoẻ và an sinh xã hội. Văn hoá các dân tộc thiểu số được phát triển hài hoà trong một nền văn hoá đa dân tộc, bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp của các dân tộc đều được trân trọng giữ gìn, phát huy và phát triển. đồng bào dân tộc được hưởng chính sách ưu tiên về lao động và việc làm, được bình đẳng trong làm việc, lựa chọn việc làm và nghề nghiệp.

 

Có thể khẳng định, trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, quyền của đồng bào dân tộc thiểu số đã được cụ thể hoá trong nhiều chính sách pháp luật đã tạo điều kiện cho đồng bào có cơ hội thuận lợi phát triển về mọi mặt. Khẳng định tính nhất quán chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta qua các thời kì, đó là: Các dân tộc Việt Nam đều bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau để cùng phát triển. Cùng với sự hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách phát triển của đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam đang từng bước được luật hoá khẳng định quyền bình đẳng giữa các dân tộc, không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ phát triển cao hay thấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng và an ninh.

 

Bên cạnh kết quả đã đạt được, việc nghiên cứu, xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách đối với dân tộc thiểu số trong Hiến pháp năm 1992 vẫn còn những hạn chế nhất định, đó là:

 

Thành phần, số lượng tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội của người dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế như: số đại biểu các dân tộc thiểu số tham gia Quốc hội còn thấp (trong tổng số 53 dân tộc thiểu số, bình quân các khoá chỉ có từ 29 đến 33 dân tộc có đại biểu Quốc hội. Đến nay trải qua 13 khoá thì vẫn có 5 dân tộc chưa một lần có đại diện tham gia Quốc hội. Số lượng, thành phần người dân tộc thiểu số tham gia Hội đồng  nhân dân các cấp, tham gia công tác trong bộ máy Nhà nước còn thấp so với tỉ lệ dân số trên địa bàn. Đặc biệt, số người dân tộc thiểu số tham gia bộ máy lãnh đạo quản lý các cấp chiếm tỉ lệ rất thấp và càng lên cao số lượng này càng ít.

 

Về kinh tế vùng miền núi, vùng dân tộc thiểu số phát triển chậm so với cả nước và chưa vững chắc, khoảng cách giàu nghèo và trình độ phát triển giữa đồng bào các dân tộc thiểu số so với cả nước ngày càng tăng. Cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội còn thiếu và yếu chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, hiện cả nước còn hàng trăm xã chưa có đường giao thông đến trung tâm, chưa có điện sinh hoạt, chưa có trường lớp kiên cố, nước sinh hoạt, nhà văn hoá… hiện nay cả nước có tới 3 trăm ngàn hộ đồng bào dân tộc thiểu số thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt phải sống cuộc sống du canh du cư.

 

Văn hoá dân tộc thiểu số ngày càng mai một, kể cả văn hoá vật thể và phi vật thể. Không gian sinh tồn văn hoá dân tộc thiểu số ngày càng thu hẹp, tiếng nói, chữ viết, trang phục, văn học nghệ thuật, phong tục tập quán, tín ngưỡng dân tộc ngày càng mai một. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống dân tộc thiểu số chưa được quan tâm nghiên cứu, bảo tồn, vinh danh phát triển.

 

Giáo dục đào tạo miền núi, vùng dân tộc thiểu số vẫn ở mức thấp, tỉ lệ huy động người học, chất lượng giáo dục còn chưa đồng đều giữa các dân tộc và giữa địa bàn có đông đồng bào dân tộc sinh sống so với cả nước. Hiện cả nước còn tới 11% dân số đồng bào dân tộc thiểu số không biết đọc, biết viết chữ phổ thông, số lao động trong độ tuổi chưa qua đào tạo chiếm 85% đến 94%

 

Về y tế và chăm sóc sức khoẻ vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn chưa được tiếp cận với thành tựu phát triển của y học nước nhà, cơ sở y tế còn nhiều thiếu thốn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, thuốc chữa bệnh và cán bộ y bác sĩ. Một số dân tộc thiểu số rất ít người có chất lượng sức khoẻ và chất lượng dân số thấp, tỉ lệ thấp còi, bà mẹ và trẻ em chết sau khi sinh chiếm tỉ lệ cao. Cuộc sống của người cao tuổi trong đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, cơ cực chưa được tiếp cận hệ thống an sinh xã hội ưu việt dành cho người cao tuổi.

 

Việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 có ý nghĩa hết sức quan trọng, tôi cơ bản nhất trí với tờ trình của Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp 1992 và ý kiến các đại biểu đã phát biểu đối với bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và trân trọng đề nghị Quốc hội làm rõ thêm những quy định được nêu tại điều 5 trong bản dự thảo gồm:

 

Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc; các dân tộc tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển.

 

Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, hoà nhập vào sự phát triển chung của cả nước.  

 

Cụ thể tại điều 50 (của bản dự thảo) đề nghị bổ sung quy định “công dân là người dân tộc thiểu số được Nhà nước tạo điều kiện để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình”;

 

Tại điều 65 (bản dự thảo) đề nghị bổ sung quy định “Nhà nước có chính sách bảo tồn, phát huy, phát triển nền văn hoá các dân tộc thiểu số”;

 

Tại các điều 63;64;65;66;67;68 (chương III bản dự thảo) đề nghị bổ sung các quy định thể hiện rõ quan điểm “Nhà nước đảm bảo cho các dân tộc thiểu số được tiếp cận với sự phát triển của nền y học, hệ thống an sinh, giáo dục, khoa học và công nghệ nước nhà”. Tại các điều 76; 81 đề nghị làm rõ hơn vị trí, vai trò và trách nhiệm của Hội đồng dân tộc, Chủ tịch hội đồng dân tộc với việc thẩm định thẩm tra, được tham khảo ý kiến khi Quốc hội, Chính phủ ban hành các quy định thực hiện chính sách dân tộc.

 

Đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định quyền cử đại diện của dân tộc thiểu số đặc biệt là dân tộc thiểu số rất ít người tham gia Quốc hội, để xây dựng Quốc hội của chúng ta thực sự là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất đại diện cho nhân dân trong đó có nhân dân các dân tộc thiểu số cùng xây dựng và phát triển đất nước./.

 

                                              Bích Ngọc

                  (VP Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh tổng hợp)

 

 

 

Các tin khác


Đổi mới sinh hoạt chi bộ ở Đảng bộ Khối các cơ quan tỉnh

Những năm qua, Ban Thường vụ Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, coi đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên. Qua đó góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động công đoàn cơ sở

LTS: Hòa chung khí thế cả nước hân hoan kỷ niệm 49 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2024); 138 năm ngày Quốc tế Lao động (1/5/1886 - 1/5/2024) và hướng đến kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Công đoàn Việt Nam (28/7/1929 - 28/7/2024); 73 năm thành lập Công đoàn tỉnh Hòa Bình (1951 - 2024), phóng viên Báo Hòa Bình có cuộc trao đổi với đồng chí Nguyễn Mạnh Cương, Tỉnh ủy viên, Chủ tịch Liên đoàn Lao động (LĐLĐ) tỉnh về sự lớn mạnh của đội ngũ công nhân, viên chức, lao động (CNVCLĐ) tỉnh trong phát triển KT - XH địa phương.

Lễ Thượng cờ ''Thống nhất non sông'' tại Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải

Sáng 30/4, tại Kỳ đài ở khu Di tích quốc gia đặc biệt Đôi bờ Hiền Lương-Bến Hải, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Quảng Trị long trọng tổ chức Lễ Thượng cờ "Thống nhất non sông” nhân dịp Kỷ niệm 49 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2024), 52 năm Ngày giải phóng tỉnh Quảng Trị (1/5/1972-1/5/2024).

Tuổi trẻ huyện Tân Lạc thắp sáng truyền thống quê hương anh hùng

Tân Lạc là huyện có bề dày lịch sử. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, quân và dân huyện Tân Lạc đã phát huy truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lập nhiều chiến công xuất sắc trong chiến đấu, lao động, sản xuất. Với khẩu hiệu "Tất cả vì tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” và tinh thần "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, huyện Tân Lạc đã đóng góp trên 45.000 tấn lương thực, thực phẩm; trên 2.900 thanh niên lên đường nhập ngũ, trong đó có 190 gia đình có từ 2 - 4 con đi bộ đội.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục