Trong những ngày gần đây, nhất là sau khi Ngân hàng Nhà nước nâng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8% đầu tháng 12 vừa qua, đã có những cuộc bàn cãi sôi nổi trong giới tài chính ngân hàng liên quan đến việc có nên bãi bỏ lãi suất cơ bản và thay vào đó một cơ chế lãi suất thích hợp hơn.

 

Về vấn đề này, Báo Lao Động đã có bài phỏng vấn tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu - là Giáo sư môn tài chính ngân hàng (NH) cho các chương trình MBA tại Georgetown University, Polytechnic University Pomona và University of the West (Mỹ).

- Ông có nhận xét gì về việc thực hiện lãi suất cơ bản (LSCB) ở VN?

- Trước hết, chúng ta phải ghi nhận tác dụng thực tế của LSCB từ giữa năm 2008 đến nay là bất cứ khi nào NHNN VN thay đổi LSCB, thị trường tín dụng và những thị trường vốn như vốn huy động, CK đều tức thì và thường theo hướng mà NHNN mong muốn. Vấn đề đặt ra là liệu những tác dụng trên thị trường do phản ứng tức thời đó có tồn tại lâu và giữ sự ổn định của thị trường không và nếu không thì có nên hay không thay thế LSCB bằng mồt cơ chế lãi suất khác hữu hiệu hơn để thực hiện chính sách tiền tệ trong khung cảnh của một nền kinh tế thị trường?

Trong lần nâng LSCB vừa qua của NHNN từ 7% lên 8% và do đó lãi suất cho vay tăng từ 10,5% lên 12%, tác dụng tức thời và trực tiếp của biện pháp này là thị trường tín dụng bị thắt chặt tức thì. Chi phí lãi tăng làm các DN giảm thiểu vay mượn từ NH. Ngoài ra, các NH cũng đồng loạt tăng lãi suất huy động vốn và do đó tăng cao chi phí lãi đầu vào và vì thế lựa chọn kỹ càng hơn những đối tượng cho vay có khả năng trả lãi suất cho vay và khả năng trả nợ cao.
 
Mục đích của việc tăng LSCB là thắt chặt sự tăng trưởng cung tiền, kềm chế lạm phát và do đó ổn định vĩ mô. Kinh nghiệm trong những năm qua đã chứng tỏ việc điều chỉnh lãi suất là một trong những công cụ hữu hiệu trong việc thực thi chính sách tiền tệ (CSTT) của NHNN.

- Nhưng có ý kiến cho rằng, nếu cố giữ lại LSCB như hiện này là không phù hợp vì nó có những mặt tiêu cực?

- Đúng thế, ở đây tôi không nói là mặt tiêu cực mà chỉ đề cập đến tác dụng phụ của việc điều chỉnh LSCB trong kỳ vừa qua. Nhiều NH đã lách lãi suất trần 12% bằng cách thu phí dịch vụ từ các DN đi vay.

Đối với các NH đó việc thu phí phụ trội này là mức lãi suất trần 12%/năm quá thấp không đủ để bảo đảm mức lợi nhuận chênh lệch (interest rate spread) cần thiết cho khả năng sinh lời của ngân hàng, trung bình phải khoảng 2,5- 3%/năm (lãi suất đầu ra - lãi suất đầu vào, liên quan đến món vay), trong khi chi phí nguồn vốn huy động tăng nhanh vì lãi suất tiền gửi của khách hàng tăng cùng chiều với lãi suất cho vay trên thị trường NH.
 
Tất cả những phí phụ trội này cộng với lãi suất trên sổ sách đã làm cho mức lãi suất thực tăng cao hơn nhiều so với LSCB. Đấy là chưa kể việc rất nhiều những thành phần kinh tế không có khả năng vay vốn NH như nhiều DN nhỏ trong giới tiểu thương phải đi vào thị trường vay vốn chợ đen vay với lãi suất cắt cổ.

Cũng cùng một nhịp độ với lãi suất cho vay, lãi suất trả cho tiền gửi khách hàng tăng cao. Nhiều NH đã sẵn sàng trả cho khách hàng gửi tiền một mức lãi suất cao hơn nhiều mức trần 10,5%/năm do NHNN chỉ đạo. Nhiều NH khác tuy vẫn trả khách hàng gửi tiền với lãi suất trên sổ sách là 10,49%, nhưng trên thực tế lại có những chương trình khuyến mãi rất hấp dẫn, chẳng hạn trả trước tiền lãi, tặng tiền và tặng quà cho những món tiền gửi lớn. Trong những tuần lễ cuối năm 2009, ngay cả lãi suất qua đêm trên thì trường liên NH có lúc lên trên 20%/năm, vượt quá xa với mức 12% do NHNN quy định.

Những hiện tượng và tác dụng phụ liên quan đến việc điều chỉnh LSCB thể hiện một sự kiện rõ ràng là LSCB không phản ánh một mức lãi suất thực của thị trường, mà là một mức lãi suất được ấn định dựa vào chủ trương của NHNN vào một thời điểm nhất định khi thực hiện CSTT vào giai đoạn đó.

Việc áp đặt LSCB là một biện pháp hành chính không dựa vào cơ sở vận hành cung và cầu của kinh tế thị trường. Ở đây tôi không bàn đến khía cạnh luật pháp của việc những thành phần kinh tế (ngân hàng, người đi vay, người gửi tiền) chấp nhận/đòi hỏi những mức lãi suất vượt xa LSCB do NHTƯ áp đặt, tôi chỉ đưa ra sự kiện là LSCB không dựa trên cơ sở kinh tế thị trường mà là những quyết định đơn phương của NHNN và từ đó gây ra những sự tự điều chỉnh của các thành phần kinh tế sau những quyết định về LSCB của NHNN

- Vậy có nên bỏ LSCB và tìm cơ chế khác thích hợp hơn? Theo chúng tôi được biết thì NHTƯ Mỹ có cách điều hành lãi suất khá hiệu quả. Ông có thể cho bạn đọc biết rõ hơn về lãi suất (Federal Funds Rate) của NHTƯ Mỹ?

- Việc VN có nên bỏ LSCB hay không tôi xin dành câu trả lời cho các nhà làm chính sách. Ở đây, tôi xin bàn đến một loại lãi suất tương tự đươc NHTƯ Mỹ áp dụng, được gọi là “Federal Funds Rate” (tạm dịch là lãi suất vốn liên bang), hay gọi tắt là “Fed Fund Rate” (từ đây gọi là “FFR”). FFR có chức năng giống như LSCB, vì FFR là một công cụ của chính sách tiền tệ của NHTƯ Mỹ (Federal Reserve Bank, hay gọi tắt là “Fed”). Theo định nghĩa, FFR là lãi suất mà các định chế tài chính (chủ yếu là NHTM) trả cho nhau trên số dư cho nhau vay tại Fed.

Dĩ nhiên, hệ thống tài chính của Mỹ và cơ cấu tổ chức NHTƯ của Mỹ khác biệt với VN, nhưng chúng ta có thể đi tìm một mô hình trên cơ sở cơ chế thị trường để xây dựng LSCB, mà mô hình của Federeal Reserve Bank là một mô hình đáng nghiên cứu.

- Xin cảm ơn tiến sĩ!

                                                                         Theo Báo Laodong

Các tin khác


Tiết kiệm kinh phí, vốn nhà nước năm 2023 đạt hơn 83 nghìn tỷ đồng

Năm 2023, công tác điều hành chi ngân sách nhà nước được thực hiện chủ động, chặt chẽ theo dự toán, bảo đảm đúng chính sách, chế độ, triệt để tiết kiệm chi thường xuyên, cắt giảm những nhiệm vụ chi chưa thực sự cần thiết, chậm triển khai; tổng số tiết kiệm kinh phí, vốn nhà nước theo báo cáo của các bộ, ngành, địa phương là 83.087 tỷ đồng.

Giám sát tình hình chấp hành quy định pháp luật đối với việc cho thuê đất, sử dụng đất 

Sáng 15/5, HĐND tỉnh tổ chức giám sát tình hình chấp hành quy định pháp luật đất đai đối với việc cho thuê đất, việc sử dụng đất (SDĐ) của các doanh nghiệp (DN), hợp tác xã (HTX), hộ gia đình và cá nhân được Nhà nước cho thuê đất trên địa bàn tỉnh. Đồng chí Nguyễn Thị Cẩm Phương, Phó Chủ tịch Thường trực HĐND tỉnh, Trưởng đoàn giám sát chủ trì hội nghị. Tham dự có các đồng chí: Bùi Văn Thắng, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh; Quách Tất Liêm, Phó Chủ tịch UBND tỉnh...

Huyện Đà Bắc: Nông dân rơi nước mắt vì dịch tả lợn Châu Phi

Những ngày gần đây, dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP) bùng phát, lây lan mạnh trên địa bàn xã Tú Lý, huyện Đà Bắc. Dịch bệnh đã và đang khiến không ít hộ dân rơi vào cảnh trắng tay…

Giải ngân trên 100 tỷ đồng vốn đầu tư công

Tăng cường thực hiện giải ngân vốn đầu tư công năm 2024, tính đến hết tháng 4, huyện Lạc Thủy đã giải ngân được 102.264 triệu đồng. Trong đó, giải ngân nguồn ODA, ngân sách Trung ương 2 công trình 13.025 triệu đồng, đạt 65%; ngân sách tỉnh 7 công trình giải ngân 8.078 triệu đồng, đạt 14%; ngân sách huyện giải ngân 60.287 triệu đồng, đạt 29%; nguồn ngân sách tỉnh bổ sung có mục tiêu 11.212 triệu đồng, đạt 66%; nguồn thu từ đất 9.662 triệu đồng, đạt 13%; nguồn tiết kiệm chi giải ngân 39.412 triệu đồng, đạt 54,66%.

Mật ngọt Hợp Tiến - món quà từ thiên nhiên

Mật ong rừng Hợp Tiến, xã Hợp Tiến là 1 trong 2 sản phẩm OCOP 4 sao đầu tiên của huyện Kim Bôi, là sản phẩm mật ong đầu tiên của tỉnh Hòa Bình đạt chứng nhận OCOP 4 sao. Nhờ chú trọng cải tiến quy trình, đồng thời ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất, sản phẩm mật ong rừng Hợp Tiến ngày càng khẳng định được chất lượng trên thị trường, được khách hàng gần xa tin tưởng, ưa chuộng.

Tách bạch câu chuyện giá điện

Chính phủ đã ban hành Quyết định số 05/2024/QĐ-TTg quy định về cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân và có hiệu lực thi hành từ ngày 15/5/2024 thay thế cho Quyết định 24/2017/QĐ-TTg ban hành ngày 30/6/2017.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục