Nguyễn Du (1765 - 1820), tự Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở Hà Tĩnh, sinh ở kinh thành Thăng Long. Ông là một nhà thơ lớn, là tác giả của Truyện Kiều, và nhiều sáng tác thơ văn của Nguyễn Du đã trở thành tài sản tinh thần vô giá của dân tộc. Nhân kỷ niệm 245 năm Ngày sinh và 190 năm Ngày mất của ông, PGS, TS Nguyễn Hữu Sơn có bài viết về cuộc đời và văn nghiệp của Nguyễn Du - người mà đến hôm nay, chúng ta vẫn tự hào khẳng định là thi hào của dân tộc...

 

Sinh ra và lớn lên giữa một thời tao loạn, chứng kiến biết bao cuộc đổi thay. Ngay gia đình ông cũng là cả một tấm bi kịch với sự phân hóa quyết liệt, vì người mang tâm sự hoài Lê, người nhập cuộc với Tây Sơn, có người chống đối hoặc theo về với nhà Nguyễn. Bản thân ông cũng bị xô đẩy, vừa mới được giữ một chức quan nhỏ dưới thời Lê mạt thì phong trào Tây Sơn dấy nghĩa, ông trở thành cánh bèo trôi dạt, khi ở quê vợ Thái Bình, khi về lại núi Hồng, sông Lam. Ðến ngày ra làm quan với nhà Nguyễn và được trọng dùng thì tuổi đã sang chiều, hơn nữa lại phải ở bên 'chúa lạ', nơi dẫu sao mình cũng chỉ dự một vai phụ, một chân 'chầu rìa'. Vì thế, dường như ông luôn bị phân thân, xa gần thấy triều đại nào mình cũng chịu ân sủng và cũng thấy những điều bất cập, trái chiều, khó có thể tận trung tận hiếu. Bao nhiêu ước vọng, bao nhiêu suy tư suy tưởng đành chiếu lệ một lời, đến lúc trút hơi thở cuối cùng vẫn an nhiên coi một kiếp đời thế là 'được', thay cho lời nhắn gửi, trối trăng.

Ở chặng đường tiếp nối hai thế kỷ, thơ Nguyễn Du là đỉnh cao của tiếng nói nhân văn, đồng hành với những thăng trầm lịch sử và đời sống tinh thần dân tộc. Sự nghiệp thi ca của Nguyễn Du trải dài suốt cuộc đời, có cả thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm, có cả Ðường thi và lục bát dân tộc, cả thơ đoản thiên và trường thiên. Nghiệm sinh 55 năm trên cõi đời, Nguyễn Du đã để lại cả một di sản thi ca đồ sộ với ba tập thơ chữ Hán (Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục) tổng cộng 250 bài; với những bài ca đối đáp đậm chất dân dã một thời tuổi trẻ tinh nghịch (Thác lời trai phường nón, Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu); rồi với Văn tế thập loại chúng sinh sâu thẳm tình người và đặc biệt là kiệt tác Truyện Kiều nổi tiếng.

Khác với phần nhiều sáng tác thi ca một thời Nho giáo hưng thịnh từ vài ba thế kỷ trước, Nguyễn Du hầu như gián cách với lối thơ tụng ca vương triều, tụng ca thánh đế, tụng ca một thời vua sáng tôi hiền và ly tâm cả với lối thơ ngôn chí, xướng họa, đề vịnh quen thuộc. Thơ ông bao quát một phạm vi hiện thực rộng lớn, mở rộng diện đề tài và phản ánh đa dạng số phận con người, từ cảnh ngộ ông lão đói nghèo đến người gảy đàn ở thành Thăng Long, từ những người thường gặp chung quanh đến những nhân vật chìm khuất trong lịch sử, từ nỗi nhớ người thân đến biết bao cảnh đời trầm luân trên đường đi sứ Trung Hoa... Trên tất cả là sự nhập thân, cảm thông sâu sắc của chính tấm lòng Nguyễn Du với mọi kiếp con người. Mỗi tứ thơ, mỗi câu thơ của ông đều chan chứa nỗi niềm, bộc lộ tiếng nói cá nhân nghệ sĩ theo một cách nhìn riêng, một điểm nhìn khác biệt trước thực tại. Phải có một tâm hồn nghệ sĩ lớn, một năng lực sáng tạo phi thường và 'con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả ngàn đời', 'lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột' (lời Tiên Phong Mộng Liên Ðường chủ nhân) thì Nguyễn Du mới có được kiệt tác Truyện Kiều và những vần thơ chữ Hán chất nặng suy tư.

Trong giai đoạn đầu sáng tác kéo dài đến những năm ra làm quan với triều Nguyễn, Nguyễn Du có Thanh Hiên thi tập bày tỏ tâm trạng hoang mang, xót xa về thân phận 'chân trời góc bể', 'đi khắp chân trời lại đến góc biển', 'mối sầu man mác', 'một nhánh cỏ bồng đứt gốc trước gió tây', 'người đã đến bước đường cùng'... Nỗi đau đời, thương đời tiếp tục theo đuổi ông trong những ngày ra làm quan và thể hiện trong cả tập thơ Nam Trung tạp ngâm. Ðược làm quan, với ai kia thì có thể là cả một niềm khắc khoải, một dịp vinh thân và cơ may tiến thân, riêng với Nguyễn Du, ông ngại ngần và cảm nhận nhiều hơn ở phía mặt trái, những hệ lụy, ràng buộc: 'Khá thương mình đầu bạc vẫn phải chịu để người sai khiến - Không cùng với núi xanh giữ được thủy chung' (Vọng trông chùa Thiên Thai). Trong Bắc hành tạp lục, bên cạnh mấy bài thơ viết về Thăng Long dâu bể, xót thương từ một kiếp ca nhi, một nàng hầu và biết bao người xưa cảnh cũ đã phai bạc dần theo năm tháng, còn lại tất thảy đều viết về chuyến đi sứ Trung Quốc kéo dài qua suốt một năm trời. Trong tư cách một vị Chánh sứ, Nguyễn Du cũng như bao người đi sứ khác thường nói đến nỗi nhớ nhà, tình cảnh nơi đất khách quê người, những cảnh trí lạ lùng mà lần đầu mình được gặp, được biết, thưởng ngoạn. Song điều khác biệt là ông thường nhạy cảm quan sát, phản ánh cuộc sống những người dân lao động bình thường như ông cháu người hát rong ở Thái Bình, người kéo xe ở Hồ Nam, thôn, xóm bên trạm Tây Hà, thảm trạng đói rét và việc binh đao làm nghẽn đường, hình ảnh người mẹ với ba đứa con đói khổ đối lập với bữa tiệc phung phí của đám quan lại và một ý nghĩ bất chợt nảy sinh trong nhà thơ: 'Ai vẽ bức tranh này - Dâng lên nhà vua rõ' (Những điều trông thấy)... Nhìn chung, ba tập thơ chữ Hán cho thấy quá trình sáng tác phù hợp với từng chặng đường đời và tư tưởng tác giả. Xuyên suốt nội dung các bài thơ là tiếng nói trữ tình, tiếng nói nhân văn giữa một thời tao loạn, tiếng nói khắc khoải tìm về giá trị và ý nghĩa đích thực của cuộc sống con người.     

Nói đến thi hào Nguyễn Du đương nhiên phải nhắc đến kiệt tác Truyện Kiều. Ðến nay đã có nhiều công trình khảo sát, so sánh mối quan hệ nhiều mặt giữa kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du với nguyên tác tiểu thuyết chương hồi Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Vấn đề đặt ra là Nguyễn Du đã tiếp nhận và xử lý cốt truyện Kim Vân Kiều truyện theo cung cách nào? Ông đã chủ ý lược giản cốt truyện, nhân vật, sự kiện, tình tiết như thế nào - và theo chiều hướng ngược lại, chú trọng khai thác, mở rộng, gia tăng, nhấn mạnh những phương diện nội dung và nghệ thuật nào? Ðiều quan trọng hơn, những phương diện đó đã tạo nên tính quy luật như thế nào trong quá trình sáng tạo, chuyển đổi từ loại hình văn xuôi tự sự và thể loại tiểu thuyết chương hồi Kim Vân Kiều truyện tới nghệ thuật tự sự - trữ tình và hình thức thơ Nôm lục bát Truyện Kiều như thế nào?... Có thể nhận ra một quy luật là Nguyễn Du thường lược giản hoặc tóm tắt các chương đoạn thiên về tả thực, miêu tả sự kiện và các nhân vật phụ, những đoạn đối thoại, những bài thơ xướng họa, đề vịnh, cảm khái... Ðiều quan trọng hơn, thiên tài nghệ thuật Nguyễn Du còn thể hiện ở việc gia tăng chất trữ tình, khai thác tâm trạng nhân vật và diễn tả phong cảnh thiên nhiên. Xu thế gia tăng này không chỉ được đo đếm bằng số lượng câu chữ mà bao gồm cả cách thức sáng tạo, chuyển hóa, tinh luyện những trang văn trần thuật thành lời thơ sâu lắng, gợi cảm, đi sâu vào lòng người. Ngay từ mấy câu thơ mở đầu kiệt tác Truyện Kiều, Nguyễn Du đã bày tỏ được quan niệm sáng tác của mình cũng như khái quát được một phương diện quan trọng nhất trong nội dung trữ tình và cõi lòng thi nhân: Trải qua một cuộc bể dâu - Những điều trông thấy mà đau đớn lòng... Trong Truyện Kiều quả đã xuất hiện đậm đặc một số lượng từ cảm thán và bao quát nhiều cung bậc tình cảm, trạng thái tâm lý khác nhau... Ðồng thời, Nguyễn Du còn đề cao nghệ thuật miêu tả ngoại hình, biểu lộ đời sống nội tâm, số phận con người và phản ánh mối tương quan giữa tâm trạng, tính cách nhân vật với hoàn cảnh thực tại, triệt để khai thác, tô đậm và làm nên sắc thái 'trữ tình thiên nhiên', 'thiên nhiên tâm trạng', đạt tới đỉnh cao nghệ thuật trong nền thơ tiếng Việt.

Ðặt trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc, sự nghiệp của thi hào Nguyễn Du đã kết tinh được những giá trị nhân văn bằng những trang thơ giàu cảm thông, ân nghĩa. Di sản thi ca của ông, cả chữ Hán và chữ Nôm, đã đặt ra những vấn đề quan trọng về quy luật tiếp nhận và phát triển của mỗi nền văn học dân tộc, về chính vị trí Nguyễn Du trong tư cách 'người môi giới văn hóa' vào giai đoạn cuối thời trung đại ở khu vực Ðông Á, qua đó mà chúng ta có thể xác định năng lực sáng tạo bậc thầy của nhà nghệ sĩ ngôn từ - đại thi hào dân tộc Nguyễn Du...

 

                                                                                            Theo ND

Các tin khác


Tuyên truyền cổ động kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ tại Đà Bắc

Nhân kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2024), kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/2024), kỷ niệm 49 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2024), Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh tỉnh Hòa Bình phối hợp Trường Cảnh sát nhân dân 1, Trung tâm VH-TT&TT huyện Đà Bắc vừa tổ chức đêm giao lưu văn nghệ tuyên truyền lưu động đợt I, năm 2024.

Ấn tượng Ngày Sách và Văn hóa đọc lần thứ 3 

Xác định vai trò, tầm quan trọng của sách và văn hóa đọc, ngày 24/2/2014, Thủ tướng Chính Phủ đã ký Quyết định số 284/QĐ-TTg lấy ngày 21/4 hằng năm là Ngày Sách Việt Nam. Đến nay, Ngày Sách Việt Nam đã trở thành hoạt động văn hóa thường niên, góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của Nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Năm nay, Hòa Bình chọn tổ chức Ngày Sách và Văn hóa đọc tại huyện Lạc Sơn và đã để lại ấn tượng tốt đẹp. Qua đó, tôn vinh văn hóa đọc và cổ vũ phong trào đọc, làm theo sách.

Gìn giữ điệu xoè Thái Mai Châu

Điệu xoè Thái ở Mai Châu đã có từ lâu đời và được lưu truyền từ thế hệ trước cho thế hệ sau. Múa xòe không chỉ là điệu múa phổ biến trong cộng đồng người Thái mà còn là nét văn hóa đặc sắc, hình thức sinh hoạt không thể thiếu trong các hoạt động văn hóa và đời sống tinh thần.

Lắng lòng nơi chiến khu rừng Sác

Đến TP Hồ Chí Minh vào thời điểm cuối Xuân, đầu Hè, có nhiều tuyến đường để đi, nhiều nơi để đến, nhưng chúng tôi đã chọn chiến khu rừng Sác là điểm dừng chân. Để được nghe, được thấy và được cảm nhận những chiến tích anh hùng, sự chiến đấu và hy sinh anh dũng của những chiến sĩ đặc công Trung đoàn 10 (T10) trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vì độc lập, tự do của dân tộc.

Trải nghiệm phiên chợ Bò Chủ nhật ở xã Vân Sơn

Từ chỗ chỉ họp vào thứ Ba hàng tuần, phiên chợ Bò tại xã Vân Sơn (Tân Lạc) chính thức họp thêm Chủ nhật từ ngày 24/3 vừa qua. Qua đó nhằm đưa chợ phiên trở thành nơi quảng bá bản sắc văn hóa của người Mường Hòa Bình và đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa, sản phẩm của các xã vùng lân cận, đáp ứng nhu cầu mua sản phẩm địa phương của du khách khi đến Vân Sơn du lịch vào dịp cuối tuần.

Giới thiệu hai cuốn sách “Ngàn năm văn hiến quốc gia Việt Nam” và “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam”

Ngày 19/4, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức giới thiệu hai cuốn sách "Ngàn năm văn hiến quốc gia Việt Nam” và "Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam”.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục