(HBĐT) - Mỗi miền quê của các dân tộc Việt Nam đều có những đặc sản rất riêng của từng vùng, miền, nhất là các DTTS ở vùng cao. Ngày Tết, xin giới thiệu hương vị rượu hoãng của dân tộc Dao Tiền - Hòa Bình. Đặc điểm vừa là rượu dùng trong ngày Tết Nguyên đán và các lễ hội. Nhưng rượu còn kết hợp với một số củ, quả, cây lá thuốc tại quê hương dân tộc để chữa bệnh rất kết quả…

 

Rượu hoãng! Khi làm rượu phải biết tạo men rượu cho thật chuẩn. Nhiều bạn bè sau khi thưởng thức rượu hoãng rồi cho là có thuốc hoặc lá rừng để làm men rượu. Xin khẳng định dân tộc Dao Tiền làm rượu hoãng bằng men gạo, không có một thứ gì pha trộn.

 

Dân tộc Dao Tiền từ những ngày xa xưa còn phát nương, làm rẫy, đồng bào thường trồng cấy một loại lúa nếp hạt tròn để dành riêng cho việc làm rượu hoãng, tiếng dân tộc gọi là “côộ đống baào Chấu tíu...”. Từ ngày đồng bào hạ sơn làm ruộng, chuyển nghề thì mua gạo loại ngon, hạt gạo tròn để tiếp tục làm loại rượu này. Rượu hoãng ngày nay không phải chỉ phục vụ cho các lễ hội của dân tộc mà còn phục vụ cho các nhà hàng tại miền quê và các công trường, lâm trường, nơi cộng đồng.

 

Phương thức làm rượu hoãng gồm: gạo nếp được ngâm trong 7-8 tiếng, đem vớt ra cho ráo nước cho vào hông (tức là loại chõ to bằng gỗ) để đồ. Khi xôi chín lót lá chuối trên nong (nia) để quạt cho nguội, xong đặt xôi lên trên giá đại hình thù đan kiểu phễu (có đường kính độ 1,2 m) đặt xôi rải đều trên thành phễu, tiếng dân tộc gọi là “Nom tíu dà”. Sau đó rắc men trên xôi, số men tùy theo trọng lượng của gạo đồ xôi, trung bình mỗi kg gạo phải dùng tới 3 quả men. Sau đó lấy cả tàu lá chuối rừng hơ lửa chín lá, rửa sạch đậy lên, xếp lá theo hình phễu để qua 3 ngày 3 đêm (mùa hè), còn về mùa đông để dài thêm. Thường khi có mùi rưượu thơm thì chuyển vào các nồi to và cho nước sôi để nguội vào ngập  xôi đã ủ men. Đậy kín và để thời gian ủ rượu có nước tới 4 ngày đêm, tiếng dân tộc gọi là “Ghịa túi”. Sau thời gian này, kiểm tra và múc ra uống thử, thơm, ngọt gần giống như rượu nếp cái của miền xuôi, tiếng dân tộc gọi là “Hốp tiu nhân...”, ý dịch ra là uống rượu sống. Tiếp sau đây mới gọi là rượu chín. Đã qua các bước trên, đến giai đoạn nướng rượu, trước khi đem nướng rượu, gia chủ nhờ thêm người làng (phải là người khéo tay, sạch sẽ) đến lọc hộ bã rượu ra, loại bã rượu này thường cho vào chum vại sạch để dùng làm thực phẩm nấu ăn, cũng là một món ăn đặc sản của dân tộc như: nấu bỗng rượu hoãng với cua núi, các loại thịt rừng khô, bỗng rượu nấu cá suối…

Tại sao rượu hoãng lại trong vắt và vàng óng thơm ngon, tất nhiên từ các chi tiết và công đoạn sơ qua như phần trên. Song, có một công đoạn quan trọng đó là đem rượu “nướng” bên bếp lửa than hồng, bà con xưa nay còn chọn một loại vỏ cây khô để nướng rượu, tiếng dân tộc gọi là “Quá pe sé đốp tài liếu púa tíu”. Các vò rượu được nướng vần bên bếp than hồng đến khi rượu sôi thì giảm than hồng. Ngày hôm sau mới bê để gọn ở gian giữa nhà gọi là “Anh tíu an úa kên...”. Ngày xuân về, tết đến đem ra mời khách.

 

Dùng rượu hoãng cùng với một số loại thuốc y học cổ truyền của dân tộc để chữa bệnh như: rượu hoãng hầm với nghệ đen và rễ già của dây mật gấu rừng chữa bệnh dạ dày; rượu hoãng một liều vừa phải hầm với dây già của lá lồm để đẩy các loại sỏi trong cơ thể con người như: sỏi mật, sỏi thận, sỏi đường tiết liệu… Đặc biệt, đối với chị em phụ nữ sau khi sinh nở được dùng rượu hoãng hầm với gà (loại gà ri), nghệ vàng, gừng đỏ dân tộc và một số loại thuốc ở vùng dân tộc, để bồi bổ cơ thể chóng phục hồi sau khi sinh nở và phòng, chống các bệnh như: hậu sản, sa dạ con hoặc thiếu sữa… Sau khi sinh nở khoảng trên 20 ngày, chị em nào cũng được gia đình chăm lo bổ dưỡng chu đáo, tiếng dân tộc gọi là “Miền Chệ nhận xung tíu”. Người dân làng Dao Tiền như xóm Dướng, Phủ… xã Toàn Sơn (Đà Bắc) và các xóm, làng nằm cạnh lòng hồ thủy điện sông Đà mỗi lần về quê thường gặp các đoàn khách nước ngoài âu, á, Tây, Tàu du ngoạn lòng hồ, khách ngoại thường dừng chân làng dân tộc Dao và ưa chuộng loại rượu hoãng đặc sản dân tộc, họ dùng tại chỗ và mua đem đi…

 

 

                                                                           Bàn Thị Kim Cúc

                                                              (Tổ 19, Phương Lâm - TP Hòa Bình)

 

Các tin khác


Thủy điện Hòa Bình - niềm tự hào công trình thế kỷ

(HBĐT) - Xuyên suốt quá trình 135 năm thành lập tỉnh và 30 năm tái lập tỉnh, công trình thủy điện Hòa Bình như một dấu ấn đáng tự hào, ghi dấu mốc son chói lọi trong bản trường ca chinh phục sông Đà, góp sức xây dựng, phát triển quê hương, đất nước.

Những nét khái quát về sự hình thành tỉnh Hòa Bình

(HBĐT) - Hòa Bình là tỉnh thuộc tiểu vùng Tây Bắc của vùng trung du và miền núi Bắc Bộ, có vị trí quan trọng, chiến lược về kinh tế, chính trị, AN-QP... Tỉnh là nơi có nền Văn hoá Hòa Bình nổi tiếng - cái nôi văn hoá của người Việt cổ.

Tự hào cuộc khởi nghĩa Tổng Kiêm - Đốc Bang (1909 - 1910)

(HBĐT) - Hòa Bình là một tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Bắc của Tổ quốc, với truyền thống yêu nước, ngay từ khi thực dân Pháp đặt ách đô hộ tại đây, Nhân dân Hòa Bình đã tổ chức nhiều cuộc nổi dậy chống thực dân và chế độ lang đạo hà khắc. Trong dòng chảy lịch sử hào hùng 135 năm thành lập tỉnh, cuộc khởi nghĩa Tổng Kiêm - Đốc Bang (1909 - 1910) là một mốc son chói lọi về lòng yêu nước của Nhân dân các dân tộc tỉnh Hòa Bình.

Đảng bộ tỉnh - những mốc son lịch sử

(HBĐT) - Với truyền thống vẻ vang trong quá trình xây dựng và phát triển, Đảng bộ, Nhân dân các dân tộc trong tỉnh bằng những hành động, việc làm cụ thể, nắm bắt các cơ hội phát triển, trách nhiệm, nỗ lực thi đua thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, xây dựng tỉnh phát triển nhanh, bền vững.

Hòa Bình giai đoạn từ năm 2015 đến nay - những dấu ấn tự hào

(HBĐT) - Từ năm 2015 đến nay, với sự đoàn kết thống nhất, cùng nỗ lực vượt bậc của toàn tỉnh, Hòa Bình tiếp tục thu được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực KT-XH, QP-AN, xây dựng hệ thống chính trị. Kinh tế tăng trưởng khá và bền vững, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; các ngành, lĩnh vực sản xuất đều phát triển. Hoạt động xúc tiến đầu tư trong giai đoạn này được đẩy mạnh, môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện; kết cấu hạ tầng kỹ thuật được đầu tư, quan tâm với nhiều công trình quan trọng. Hoạt động đối ngoại được mở rộng.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục