Mô hình ủ rơm, rạ thành phân hữu cơ do Sở KH&CN tổ chức tại xã Kim Bình (Kim Bôi) giúp người dân tận dụng nguồn phân hữu cơ tại chỗ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
(HBĐT) - Hiện nay, dân số huyện Kim Bôi có trên 116.000 người, tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện chiếm 21,15%, số người trong độ tuổi lao động trên 75.000 người, chiếm 64,5% dân số.
Đồng chí Vũ Ngọc Quang, Phó Chủ tịch UBND huyện Kim Bôi cho biết: Trong những năm qua, huyện đã xác định vai trò quan trọng của việc đào tạo nghề với sự phát triển KT-XH. Trong đó, quan tâm lớn đến thực hiện đề án dạy nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định số 1956 của Thủ tướng Chính phủ nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn, tạo việc làm chuyển nghề, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống góp phần xóa đói - giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội tại địa phương. Từ huyện đến xã, thị trấn đã thành lập được Ban chỉ đạo 1956. Huyện thành lập Trung tâm dạy nghề với đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên tạm ổn định. Từ nguồn ngân sách huyện đã đầu tư 2,5 tỷ đồng mua trang thiết bị dạy và học. Trong giai đoạn 2010-2014, huyện đã mở 35 lớp đào tạo nghề cho 1.045 học viên. Số lao động có việc làm sau học nghề đạt 90% trở lên, trong đó, lao động được doanh nghiệp, cơ sở sản xuất tuyển dụng đạt 60%, doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm 20% và tự tạo việc làm 10%. Thu nhập bình quân mỗi lao động đạt khoảng 2 triệu đồng/tháng. Ban chỉ đạo của huyện đã lựa chọn một số nghề phi nông nghiệp mang tính đặc thù như: may túi xách hàng siêu thị và làm chổi chít xuất khẩu. Những nghề này phù hợp với đặc điểm, điều kiện địa phương, giải quyết việc làm tại chỗ, tranh thủ lúc nông nhàn, mang lại thu nhập ổn định cho lao động nhất là lao động nữ.
Tuy nhiên, thực trạng lao động nông thôn của huyện Kim Bôi hiện nay phần lớn trình độ hạn chế, quen với sản xuất thủ công, nhỏ lẻ, chỉ tham gia học và làm nghề khi mùa vụ nhàn rỗi. Vì vậy việc lựa chọn nghề phù hợp với năng lực, điều kiện của người lao động để sau khi học nghề lao động có việc làm, thu nhập ổn định là khó khăn lớn nhất của huyện. Do điều kiện thực tế công nghiệp chưa phát triển, ít nhà máy, xí nghiệp nên các nghề cơ khí, kỹ thuật khi học xong không có việc làm. Các nghề truyền thốõng hầu như không có, nguồn nguyên liệu khan hiếm... Một số nghề có khả năng mang lại thu nhập cao, ổn định cho người lao động như may túi xách hàng siêu thị, làm chổi chít xuất khẩu... không thể phát triển thành thế mạnh bởi nguồn nguyên liệu ít, thiếu nguồn hàng, các cơ sở không đủ năng lực mở rộng sản xuất... nên không thu hút được nhiều lao động. Kinh phí chi cho công tác dạy nghề hàng năm eo hẹp do chủ yếu dựa vào ngân sách hỗ trợ của Trung ương nên tỷ lệ huy động người học nghề hàng năm còn ít so với nhu cầu người dân. Trung tâm dạy nghề của huyện thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học chưa đưa vào khai thác, sử dụng, giáo viên cơ hữu còn thiếu...
Theo đồng chí Vũ Ngọc Quang, trong thời gian tới, huyện Kim Bôi tiếp tục tuyên truyền mục đích học nghề, tiến hành điều tra tổng hợp nhu cầu học nghề tại các xã, thị trấn. Xác định lựa chọn những nghề phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng địa bàn, đáp ứng nhu cầu của người lao động, đảm bảo tính hiệu quả sau học nghề. Tăng cường hoạt động của Ban chỉ đạo 1956 với các cấp, thường xuyên kiểm tra, giám sát đối với các xã, thị trấn, đặc biệt với các lớp dạy nghề ở thôn, bản. Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, nâng cao năng lực về tư vấn, quản lý công tác dạy nghề cho đội ngũ cán bộ cơ sở. Đảm bảo đầy đủ chế độ ưu đãi với người học nghề, tổ chức ký kết về chất lượng, hiệu quả đào tạo của 4 bên: chính quyền địa phương, cơ sở dạy nghề, người học nghề và cơ sở sản xuất, kinh doanh trước khi mở các lớp dạy nghề.
Việt Lâm