Do thói quen sử dụng thuốc lá, uống bia rượu, làm việc căng thẳng kéo dài... đã khiến nhiều người mắc bệnh tim mạch ngay khi còn trẻ làm cho bệnh lý này ngày càng trẻ hóa với độ tuổi mắc bệnh có thể gặp khi mới 30-35 tuổi.


Bệnh tăng huyết áp ngày càng trẻ hoá.

Vậy điều này gây ảnh hưởng thế nào đến chất lượng cuộc sống của người bệnh cũng như với sức khỏe cộng đồng. Phóng viên Báo Sức khỏe & Đời sống đã có cuộc trao đổi với PGS.TS. Phạm Mạnh Hùng – Phó Viện trưởng Viện Tim mạch Việt Nam, Tổng thư ký Hội Tim mạch học  Việt Nam về vấn đề này.

Phóng viên (PV): Xin PGS cho biết, bệnh lý tim mạch ở Việt Nam trong những năm gần đây có biến động gì đáng chú ý?

PGS.TS. Phạm Mạnh Hùng: Ở nước ta hiện chưa có thống kê đầy đủ về tỷ lệ mắc bệnh tim mạch trong cộng đồng, nhưng thực tế bệnh tim mạch gia tăng hàng năm rất nhanh chóng. Nếu năm 1980 thống kê cho thấy có khoảng 10% bệnh nhân mắc tăng huyết áp nhưng đến năm 2009 tăng lên 27% ở người lớn. Còn tại bệnh viện, theo thống kê bệnh lý tim mạch không lây nhiễm như bệnh động mạch vành tăng cao nhanh chóng, ví dụ tại phòng Tim mạch can thiệp – Viện Tim Mạch Việt Nam, khoảng 10 năm trước đây, can thiệp khoảng 300 ca bệnh nhân bị bệnh động mạch vành/năm thì tới năm 2016 đơn vị can thiệp khoảng 3.500 ca/năm. Con số này cho thấy tốc độ gia tăng số người mắc bệnh gấp hơn 10 lần trong vòng 10 năm qua. Bên cạnh đó, bệnh tim mạch cũng chiếm con số tử vong không nhỏ trong các bệnh lý không lây nhiễm ở nước ta, khoảng 33% với gần 200 nghìn người tử vong mỗi năm. Điều đáng báo động là tình trạng tử vong do các bệnh tim mạch chủ yếu xuất phát từ người bệnh khi họ không được phát hiện và điều trị kịp thời.

Ngoài ra, mô hình bệnh tật trong bệnh lý tim mạch cũng có sự thay đổi, chẳng hạn như cách đây 30 năm, nhồi máu cơ tim là bệnh lý khá hiếm gặp ở nước ta nhưng hiện nay căn bệnh này đã trở nên rất phổ biến, gặp hàng ngày tại mọi cơ sở y tế. Trước đây, tỷ lệ bệnh thấp tim hay còn gọi thấp khớp cấp (ăn vào khớp đớp vào tim) ở nước ta rất cao nhưng bây giờ bệnh xơ vữa có tỷ lệ cao hơn. Một ví dụ khác là tình trạng trẻ hóa bệnh tim mạch, cụ thể như bệnh lý tăng huyết áp, nếu như trước đây bệnh lý này thường gặp ở người cao tuổi thì hiện nay càng ngày càng có nhiều người trẻ mắc bệnh.

PV: PGS có thể nói rõ hơn về nguyên nhân gây trẻ hóa bệnh tim mạch ở nước ta?

PGS.TS. Phạm Mạnh Hùng: Hiện nay, mô hình bệnh tim không lây nhiễm bị trẻ hóa bởi lối sống hiện đại hóa. Trước đây, các bệnh mạch vành, động mạch não, bệnh động mạch ngoại biên... thường chỉ gặp ở người cao tuổi nhưng hiện nay gặp ở bất kỳ lứa tuổi nào, có thể chưa đến 40 và gần đây nhất chúng tôi liên tục can thiệp những trường hợp bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim ở tuổi trên dưới 30 trong đó có ca mới 28 tuổi. Theo điều tra năm 2014 về tăng huyết áp, số người bị tăng huyết áp dưới 40 tuổi chiếm tỷ lệ 16,5%. Nguyên nhân dẫn đến trẻ hóa các bệnh lý tim mạch không lây nhiễm là do lối sống hiện đại theo xu hướng có hại cho sức khỏe như ăn thực phẩm chế biến sẵn nhiều dầu, mỡ cộng với tình trạng lười vận động, uống rượu, hút thuốc lá... Đối tượng có nguy cơ thường gặp nhất là những người thừa cân, béo phì, vòng bụng lớn, có rối loạn mỡ máu, tăng huyết áp và đặc biệt là ở bệnh nhân hút thuốc lá.

Đối với bệnh tăng huyết áp cũng vậy, hiện rất nhiều bệnh nhân trẻ ở độ tuổi 30-35 mắc các bệnh lý về huyết áp, tim mạch và thậm chí là không ít trong số đó tử vong do nhồi máu cơ tim. Nguyên nhân chính cũng xuất phát từ thói quen, lối sống, ăn uống không hợp lý: Ăn nhiều chất béo no, đồ ăn chế biến sẵn, sử dụng thuốc lá, bia rượu, nước uống có gas, stress... dẫn tới béo phì, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu, đái tháo đường... và cuối cùng là các biến cố tim mạch.

Khi một người mắc bất kỳ bệnh lý tim mạch nào khi còn trẻ tuổi như tăng huyết áp, nhồi máu cơ tim, xơ vữa động mạch... thì đều ảnh hưởng đến sức khỏe nói chung cũng như chất lượng sống hay hoạt động hàng ngày. Những trường hợp này đều cần phải có chế độ luyện tập, sinh hoạt, ăn uống, dùng thuốc đều đặn, phù hợp để nâng cao chất lượng sống, tránh nguy cơ tàn tật và ảnh hưởng đến tuổi thọ.

PV: Vậy bệnh lý tim mạch nào là nguy hiểm nhất và có thể sàng lọc hay tầm soát được không?

PGS. TS.Phạm Mạnh Hùng: Tất cả các bệnh lý tim mạch đều nguy hiểm và có nguy cơ tử vong cao nhưng đều có thể sàng lọc và tầm soát được. Những bệnh lý tim mạch gây tử vong hoặc tàn phế chiếm tỷ lệ cao nhất là nhồi máu cơ tim, các bệnh động mạch vành và đột quỵ não. Bên cạnh đó, bệnh động mạch vành do nhồi máu cơ tim cấp, hội chứng vành cấp có thể gây tử vong ngay hoặc dẫn đến hậu quả suy tim và nguy cơ tử vong sau đó. Ngoài ra, các bệnh lý tim mạch khác cũng nguy hiểm không kém. Do vậy, vấn đề quan trọng nhất của chúng ta là biết cách sàng lọc và tầm soát nguy cơ của bệnh. Để thực hiện, mỗi người cần khám sức khỏe định kỳ, sàng lọc các yếu tố nguy cơ và bệnh tim mạch, nhất là những người lớn tuổi do các bệnh lý tim mạch đa số không có biểu hiện và thường din biến âm thầm. Các khuyến cáo cho thấy, mỗi người cần nhớ chỉ số huyết áp của mình cũng như số đo chiều cao cân nặng, tuổi... để xác định nguy cơ, sau đó mới có chỉ định khám sàng lọc kỹ, chuyên sâu hơn xem có bị các biến cố tim mạch nào chưa. Hoặc khi người bệnh có các biểu hiện bất thường như khó thở, đau ngực, thay đổi huyết áp, đánh trống ngực... thì cần đến cơ sở y tế để được khám sớm, tránh tình trạng để bệnh trở nặng gây khó khăn trong điều trị hay đến viện muộn gây những hậu quả đáng tiếc.

PV: Vậy theo PGS, nguyên nhân đến bệnh viện muộn là gì, có phải do suy nghĩ chần chừ của bản thân người bệnh hay vì những lý do khác?

PGS.TS. Phạm Mạnh Hùng: Bệnh nhân đến bệnh viện muộn có thể hiểu là họ đã bỏ qua "khung giờ vàng” để điều trị hay đã có những biến chứng nặng không thể cứu vãn. Có rất nhiều yếu tố chi phối điều này nên điều quan trọng trước tiên là phải truyền thông, nâng cao nhận thức của mỗi người dân để họ biết ở từng lứa tuổi có những yếu tố nguy cơ nào, triệu chứng nào cảnh báo thế nào và cần phải làm gì, cần sự hỗ trợ thế nào. Thứ hai là trang bị cho tuyến cơ sở về chuyên môn và phương tiện để chẩn đoán bệnh, thực hiện được những kỹ thuật cần thiết. Tiếp đến là vấn đề kinh phí, các kỹ thuật can thiệp tim mạch rất tốn kém nên để người bệnh tim mạch nào cũng có thể tiếp cận thì cần được thực hiện bảo hiểm y tế, ít nhất có thể thông được mạch vành kịp thời lúc đó. Ở Viện Tim mạch Việt Nam, nếu mọi điều kiện của bệnh nhân đầy đủ, chúng tôi có thể triển khai từ lúc người bệnh vào viện đến lúc được can thiệp trong vòng 60 phút. Nhưng từ lúc bệnh nhân có triệu chứng cho đến khi vào được bệnh viện thì lại quá lâu, đó là điều đáng tiếc.

PV: Lợi ích của "khung giờ vàng” đối với người bệnh tim mạch được thể hiện như thế nào, thưa PGS?

PGS.TS. Phạm Mạnh Hùng: "Khung giờ vàng” là thời gian tốt nhất cho người bệnh phục hồi và tránh biến chứng do bệnh tim mạch. "Khung giờ vàng” thường được áp dụng cho những bệnh lý nguy hiểm, dễ để lại di chứng như nhồi máu cơ tim cấp, đột quỵ. Đối với bệnh nhồi máu cơ tim cấp, người bệnh được cấp cứu tái thông động mạch vành bị tắc càng sớm càng tốt, "khung giờ vàng” để cứu sống người bệnh và tránh những hậu quả về sau là 6 giờ đầu kể từ khi xuất hiện triệu chứng đau ngực. Tuy nhiên, thực tế lâm sàng cho thấy, chỉ có khoảng 40% bệnh nhân được đưa đến bệnh viện kịp thời, 60% còn lại là muộn nên nhiều trường hợp không cứu được hoặc có sống cũng dễ bị biến chứng suy tim, rối loạn nhịp và chất lượng cuộc sống giảm sút. Đối với bệnh đột quỵ nhồi máu não thì "khung giờ vàng” được xác định trong khoảng 4 - 5 giờ đầu sau khi người bệnh bị đột quỵ với phương pháp dùng thuốc tiêu sợi huyết qua tĩnh mạch. Thuốc càng dùng sớm, hiệu quả càng cao, có thể giúp người bệnh bị đột quỵ có cơ hội bình phục hoàn toàn. Nếu bỏ qua "khung giờ vàng” này, người bệnh dù được cấp cứu bằng các biện pháp tốt nhất vẫn có thể để lại những di chứng như liệt nửa người, liệt tứ chi, không nói được...

Như vậy, bệnh tim mạch mặc dù rất nguy hiểm lại diễn biến âm thầm nhưng mỗi người hoàn toàn có thể phòng tránh được nếu có lối sống khoa học, chừng mực, không hút thuốc lá, uống rượu... và biết nhận diện dấu hiệu của các bệnh lý này để có biện pháp xử trí kịp thời, không bỏ lỡ "khung giờ vàng” của chính mình hay người thân trong gia đình.

PV: Xin trân trọng cảm ơn PGS về cuộc trao đổi này!

Theo Báo SKĐS

Các tin khác


Cảnh báo an toàn thực phẩm trước cổng trường học

Từ đầu năm 2024 đến nay, trong số 5 vụ mất an toàn vệ sinh thực phẩm diễn ra trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa thì có tới 4 vụ nạn nhân là học sinh.

Huyện Mai Châu kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh

Mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) ảnh hưởng không nhỏ đến công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình và phát triển KT-XH. Để đưa tỷ số giới tính về mức cân bằng, Trung tâm Y tế (TTYT) huyện Mai Châu đã triển khai nhiều giải pháp nhằm nâng cao nhận thức của người dân về công tác dân số, từng bước khống chế tốc độ gia tăng tỷ số giới tính khi sinh (GTKS) và tỷ lệ sinh con thứ 3, qua đó nâng cao chất lượng dân số.

Đã có hơn 10.000 ca tay chân miệng, các dịch bệnh sởi, ho gà... tăng ca mắc

Bộ Y tế cho biết, từ đầu năm đến nay, cả nước đã ghi nhận hơn 10.000 ca mắc tay chân miệng, tăng so với cùng kỳ; các dịch bệnh khác có vaccine dự phòng như sởi, ho gà... cũng tăng số mắc.

Chưa có bằng chứng cúm A/H9N2 lây từ người sang người

Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc về tăng cường công tác phòng, chống dịch bệnh do Bộ Y tế tổ chức chiều 10/4, Tiến sĩ Hoàng Minh Đức, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế đã thông tin về tình hình sức khỏe nam bệnh nhân (37 tuổi, cư trú tại xã Tân Lý Đông, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang) mắc cúm A/H9N2 đầu tiên ở nước ta; đồng thời khuyến cáo người dân không nên quá hoang mang lo lắng vì "đến nay chưa có dấu hiệu, trường hợp nào lây nhiễm lây nhiễm từ người sang người".

Tháo gỡ vướng mắc liên quan các quy định về khám, chữa bệnh

Chiều 9/4, Bộ Y tế tổ chức hội nghị trực tuyến phổ biến Nghị định 96/2023/NĐ-CP ngày 30/12/2023 quy định chi tiết một số điều của Luật khám bệnh, chữa bệnh đến hơn 300 điểm cầu tại các bộ, ngành liên quan, các đơn vị trực thuộc Bộ, các Bệnh viện Trung ương, hiệp hội, sở y tế, bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố, trường đại học chuyên ngành sức khỏe…

Bệnh tay chân miệng có xu hướng gia tăng tại Hà Nội

Ngày 8/4, Sở Y tế Hà Nội cho biết, trong tuần qua (từ ngày 29/3 đến ngày 5/4), trên địa bàn Hà Nội ghi nhận 124 trường hợp mắc tay chân miệng, tăng 47 trường hợp so với tuần trước.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục