Với Nghị định số 41/2010/NĐ-CP mà Chính phủ, kênh tín dụng đối với khu vực nông thôn đã mở rộng hơn nhưng câu hỏi đặt ra là liệu vốn có thực sự đến được với bà con nông dân đúng như kỳ vọng?  

 

Một trong những chính sách đáng chú ý trong vài ngày gần đây là Chính phủ đã ban hành Nghị định số 41/2010/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Với Thông tư hướng dẫn từ Ngân hàng Nhà nước, giờ đây các hộ nông dân trong cả nước có thể vay ngân hàng đến 50 triệu đồng mà không cần tài sản thế chấp. Còn các hợp tác xã, chủ trang trại có thể vay tối đa lên đến 500 triệu đồng. Kênh tín dụng đối với khu vực nông thôn đã mở rộng hơn nhưng câu hỏi đặt ra là liệu vốn có thực sự đến được với bà con nông dân đúng như kỳ vọng hay không?

Trước khi có Nghị định 41, ngay từ năm 1999, tức là cách đây hơn 10 năm, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 67 về chính sách tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn. Đây có thể xem là bước ngoặt có tính chất lịch sử vì đã khơi những dòng chảy tín dụng đầu tiên về nông thôn. Bằng chứng là nếu như cuối năm 1998, dư nợ tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn mới chỉ đạt khoảng 34.000 tỷ đồng, thì sau 10 năm, dư nợ cho vay khu vực này đã tăng gần 9 lần, đạt hơn 290.000 tỷ đồng.

Cho dù đã có bước tiến khá xa trong việc đưa vốn về nông thôn, thế nhưng, so với nhu cầu thực tiễn, nguồn vốn này mới chỉ như “muối bỏ bể”, vì nhu cầu đầu tư cho nông nghiệp – nông dân và nông thôn đã và đang rất lớn. Một thực tế chỉ ra là ở nhiều địa phương trong cả nước, trong đó riêng tại đồng bằng sông Cửu Long, có khoảng 80% nông dân vẫn phải chạy vạy vay vốn cho sản xuất từ “tín dụng đen”. Và nhiều nghiên cứu cho thấy, khu vực nông thôn vẫn đang trong tình cảnh “khát vốn trầm trọng".

Nghiên cứu mới đây của Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn chỉ ra rằng, vốn tự có của nông dân chủ yếu là sức lao động và các tài sản giản đơn của gia đình, còn vốn tự có bằng tiền và vốn tín dụng ngân hàng chiếm tỷ trọng thấp, thậm chí nhiều nơi không có. Từ năm 2002 trở lại đây, mức tích lũy trung bình của người dân nông thôn chỉ từ 800.000 - 1.000.000 đồng/năm. Do vậy, việc nông dân dùng lợi nhuận để tái đầu tư rất ít, ngoại trừ các trang trại trồng trọt, chăn nuôi có quy mô lớn. Phần đông nông dân chỉ lấy công làm lãi như một cách tự trả công cho mình chứ không mấy khi nghĩ tới lợi nhuận và tái đầu tư. Tình trạng nông dân mua nợ vật tư nông nghiệp của các đại lý quen mặc cho giá cao hơn thị trường diễn ra phổ biến. Và đặc biệt, trước mỗi vụ, đa phần các hộ nông dân thường phải vay 40% vốn từ các quỹ tín dụng để phục vụ sản xuất. Do đó, nhu cầu được vay, cung ứng vốn trước khi vào vụ sản xuất là lớn và bức thiết.

Trong một cuộc họp mới đây, Bộ trưởng Bộ NNPTNT – ông Cao Đức Phát, đã  nhận định rằng: tăng trưởng của ngành nông nghiệp có liên hệ mật thiết với tốc độ tăng trưởng tín dụng. So sánh cho thấy, nông nghiệp cần có 6% tăng trưởng tín dụng để được mức tăng trưởng 1%. Và Nghị định 4 được kỳ vọng sẽ tạo ra mức tăng trưởng tín dụng cho khu vực nông thôn lên mức 24% để đạt được mức tăng trưởng khu vực này lên 4% như kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, để đạt được điều này sẽ không đơn giản vì nhiều lẽ:

Thứ nhất: Cho đến giờ, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn và Ngân hàng chính sách VN vẫn là 2 đơn vị có tỷ trọng dư dư nợ vay nông nghiệp – nông thôn lớn nhất nhưng vẫn chấp nhận một thực tế là “đói” vốn đầu vào so với nhu cầu ngày càng tăng mạnh của khu vực sản xuất này. Chính vì thế, đảm bảo nguồn vốn vay cho khu vực nông nghiệp-nông thôn đang thực sự là một thách thức không hề nhỏ.

Thứ hai: thủ tục luôn là vấn đề đáng nói nhất khi đi vay vốn. Những bất cập bộc lộ từ việc thực thi một loạt chính sách cho khu vực này, nhất là việc thực hiện Quyết định 67 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách tín dụng cho khu vực nông dân, nông thôn đã minh chứng điều đó. Mức vay tín chấp đã được tăng gấp 5 lần so với trước đây, song với những vướng mắc bắt nguồn từ thủ tục vay, vốn về tay bà con nông dân vẫn còn nhiều gian nan.

Thứ ba: Bản chất hoạt động của hầu hết các ngân hàng là “tìm kiếm lợi nhuận”, sở dĩ lâu nay dòng vốn tín dụng cho tam nông vẫn còn “chưa như ý” là do hiệu quả kinh tế không cao. Với hàng loạt món vay nhỏ lẻ, chi phí vốn cao trong khi rủi ro thiên tai, dịch bệnh rình rập, nên nhiều ngân hàng cũng vì thế mà không mặn mà mở rộng tín dụng.

Chính những khó khăn đó khiến cho việc thực hiện chính sách mới, cụ thể là Nghị định 41 của Chính phủ, dù nhiều ưu đãi, dù mở rộng hạn mức và điều kiện vay vốn nhưng kênh tín dụng nông thôn dự báo sẽ vẫn khó chảy một cách mạnh mẽ, nếu không được khơi thông và tháo gỡ những nút thắt hiện tại./.

Theo VOV

 

Các tin khác


Giá nhiều mặt hàng nông sản đồng loạt giảm mạnh

Số liệu từ Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam (MXV) cho thấy, chốt tuần vừa qua, sắc xanh đỏ đan xen trên bảng giá hàng hoá nguyên liệu thế giới. Tuy nhiên, nhiều mặt hàng quan trọng ghi nhận các mức giảm mạnh đã kéo chỉ số MXV-Index giảm 0,44% xuống 2.278 điểm. Giá trị giao dịch toàn Sở trung bình đạt trên 3.600 tỷ đồng mỗi phiên.

Phiên chợ vùng cao tỉnh Hòa Bình từ 3 - 7/10: "Chợ phiên - Nét đẹp vùng cao"

(HBĐT) - Phiên chợ vùng cao tỉnh Hoà Bình năm 2023 với chủ đề "Chợ phiên - Nét đẹp vùng cao".

Tạo sinh kế để người dân bảo vệ rừng

(HBĐT) - Tỉnh Hòa Bình có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển lâm nghiệp. Trong những năm qua, nhằm nâng cao giá trị của rừng, Hòa Bình đã ban hành nghị quyết, xây dựng đề án hỗ trợ phát triển kinh tế rừng. Tuy nhiên, với diện tích rừng phòng hộ, rừng đặc dụng được người dân khoanh nuôi bảo vệ chiếm tỷ lệ lớn, trong khi phí khoán bảo vệ và phí dịch vụ môi trường rừng được chi trả thấp khiến nhiều hộ dân chưa thực sự sống được nhờ rừng. Đây là vấn đề đặt ra không chỉ đối với Hòa Bình mà còn là bài toán chung của nhiều tỉnh khu vực trung du và miền núi phía Bắc hiện nay.

Khó khăn vẫn đeo bám người chăn nuôi

(HBĐT) - Chi phí chăn nuôi tăng, trong khi giá bán vẫn ở mức thấp khiến nhiều người chăn nuôi trâu, bò trong tỉnh gặp khó khăn. Với mức giá hiện nay, người chăn nuôi cần tận dụng các nguồn thức ăn có sẵn để giảm chi phí, tránh thua lỗ.

Huyện Lương Sơn: Giá trị xuất khẩu ước đạt 457 triệu USD

(HBĐT) - Thời gian qua, huyện Lương Sơn tiếp tục đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư, thu hút các nhà đầu tư vào khảo sát, nghiên cứu đề xuất đầu tư. Đến nay, huyện đã thu hút 23 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký trên 307 triệu USD, chiếm 58,9% về dự án và chiếm 49,8% về vốn đăng ký so với toàn tỉnh.

Sản lượng thu hoạch thủy sản ước đạt 9,21 nghìn tấn

(HBĐT) - Từ đầu năm đến nay, các địa phương trong tỉnh tiếp tục đẩy mạnh phát triển nuôi cá lồng trên các thủy vực lớn, nuôi thủy đặc sản trên diện tích ao, hồ theo định hướng tái cơ cấu ngành.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục