Nghệ nhân Đinh Kiều Dung (người đi đầu) cùng các diễn viên, nghệ nhân Kim Bôi tại Lễ kỷ niệm 125 năm thành lập tỉnh, 20 năm tái lập tỉnh và Lễ hội văn hóa cồng chiêng tỉnh Hòa Bình lần thứ I.

Nghệ nhân Đinh Kiều Dung (người đi đầu) cùng các diễn viên, nghệ nhân Kim Bôi tại Lễ kỷ niệm 125 năm thành lập tỉnh, 20 năm tái lập tỉnh và Lễ hội văn hóa cồng chiêng tỉnh Hòa Bình lần thứ I.

(HBĐT) - Cách đây hơn 20 năm (năm 1991), sau thời kỳ tái lập tỉnh, nữ ca sĩ nghiệp dư Kiều Dung (Kim Bôi) được nhiều người hâm mộ biết đến với giải thưởng: Huy chương vàng Sơn Ca toàn quốc.

Sau đó, khá nhiều hội diễn, các cuộc thi đơn ca cấp tỉnh, khu vực và toàn quốc, chị luôn là sự lựa chọn số 1 của Kim Bôi với sự tin tưởng. Trong bộ trang phục dân tộc Mường, người phụ nữ Mường Động đó đã chinh phục những người yêu nghệ thuật bằng giọng ca trong sáng, đậm chất dân gian. Thời gian dần trôi, sau hơn 20 năm, nhan sắc đằm thắm một thời đã phần nào nhạt phai nhưng niềm đam mê nghệ thuật dân gian, nghệ thuật văn hóa Mường chẳng hề phai giảm. Chị đã, đang tiếp tục nuôi dưỡng, thực hiện tình yêu của mình bằng những việc làm cụ thể, thiết thực.  

Từ chuyện lớp hát, lớp cồng ở xóm Bo… 

 

Gặp lại chị khi dư âm những ngày văn hoá đặc sắc chào mừng Lễ kỷ niệm 125 năm thành lập tỉnh, 20 năm tái lập tỉnh và lễ hội văn hóa cồng chiêng tỉnh lần thứ nhất vẫn lắng đọng. Thế nhưng, chị vẫn bồi hồi tâm đắc: Là con em người Mường Hoà Bình, mình thấy xốn xang, tự hào vô cùng khi được đại diện cho Mường Động đến với ngày hội. Vui hơn nữa khi thấy lứa đàn em, đàn cháu mình cùng đoàn Kim Bôi có những cảm nhận sâu sắc về văn hoá Mường Hoà Bình. Có em nói một câu mà mình cảm động mãi: Được khoác lên mình bộ trang phục dân tộc Mường, đánh cồng chiêng và hát dân ca Mường; được chứng kiến đoàn đoàn, lớp lớp phụ nữ, thiếu nữ dân tộc đánh cồng trên đường phố Hoà Bình, thấy hãnh diện vô cùng.

 

Câu chuyện dần lần ngược về năm 2004, khi chị đặt những viên gạch đầu tiên cho lớp học “đánh cồng chiêng và hát dân ca Mường” ở xóm Bo (xã Kim Bình) quê hương. Mở lớp không hẳn vì chị là “hội viên văn nghệ dân gian”, không hẳn vì khả năng truyền giảng và dồi dào về vốn cổ mà xuất phát từ điều thẳm sâu: làm sao văn hoá Mường không phôi phai, tàn lụi mà luôn bền vững, phát triển cùng năm tháng. Điều đó được chị hiểu cụ thể: con em người Mường phải biết hát dân ca Mường, biết đánh cồng Mường. Trang phục dân tộc Mường với những dây bạc xà tích rong reng, “đênh” xanh thắt eo người phụ nữ, tôn vinh vẻ đẹp sơn nữ đang bị đời sống đương đại lấn át và nhà sàn của người Mường cũng mất dần chỗ đứng thì điều níu kéo lại phải bắt nguồn từ đời sống tâm hồn của người Mường. Vì thế, chị đã âm thầm thực hiện những kế hoạch của mình. Biết được dự định đó, con em người Mường ở xóm Bo hào hứng chờ ngày được hát những điệu dân ca, được cầm trên tay vật báu hồn thiêng mà cha ông để lại. Thế rồi, vào những đêm cuối tuần ở xóm Bo đã trở thành những đêm văn nghệ sôi động, hào hứng. Khoảng 20 em nhỏ từ 6-14 tuổi đã được cô Dung dạy những bài “Ru ún”, “Mời trầu”, “Lời ru ban đêm”, “Lời ru ban ngày” theo lối hát của người Mường trong cuộc sống thường ngày cùng các bài cồng người Mường Động, Mường Bi từng có. Tiếng lành đồn xa, các cháu, các em ở các xóm khác như xóm Lạng, Lục Đồi, Bãi cũng nài bố mẹ đèo xe đến để “thụ giáo”. Nhưng vì những lý do khác nhau như: không có địa điểm bảo đảm cho việc thu nạp các học viên nhí cũng như phương tiện tập luyện: trang âm, thiết bị và nhất là không đủ lượng cồng chiêng cho các cháu tập (bộ có 8 chiếc do các cụ cao tuổi cho mượn nhưng đã hỏng 3 chiếc) nên các cháu ở xóm khác đành phải nén lòng chờ đợi.  Từ năm 2004 đến nay, lớp cô Dung nếu tính kỹ ra, cũng cho tốt nghiệp từ 6-7 lượt với trên 30 học viên được theo học hát dân ca và đánh cồng. Nhiều em đã trưởng thành nhanh chóng, đủ sức là bạn diễn của chị tại các ngày hội văn hoá, các ngày lễ kỷ niệm của huyện, của tỉnh như Bùi Thuý Ngần, Bùi Thuỳ Linh. Điều chị mừng nhất là nhiều diễn viên trẻ sau khi học ở xóm Bo đã đi học, đi làm ở nhiều nơi trong, ngoài tỉnh vẫn phát huy được vốn mà chị truyền dạy và đem đến cho người xem, người nghe thưởng thức những làn điệu, bài cồng Mường nhiều cảm xúc. Lứa nghệ nhân nhí hôm nay như Bùi Thu Hà, Bùi Thị Bảo... cũng đang đồng hành cùng chị trong những buổi học đầy hứng thú và say mê... Phòng VH-TT huyện Kim Bôi (nơi chị công tác) và những người tâm huyết với văn hoá Mường ở vùng Tứ Động (các bố, các mế ở Kim Bình, gia đình, người thân...) vẫn tiếp tục quan tâm, động viên, ủng hộ chị trên con đường đã chọn, dù có muôn vàn khó khăn, thách thức...

 

Đến những trăn trở và dự định...

 

Đã có lúc nào chị hết đam mê và thấy mệt mỏi? Câu trải lòng của chị: Vẫn đau đáu, trăn trở với việc mở lớp vì vẫn vẹn nguyên niềm đam mê nhưng cũng có lúc mỏi mệt. Có lúc khát khao một bộ cồng đủ các sắc âm để dạy cho các cháu được vẹn đầy hơn nhưng cũng không dễ dàng. Thế điều ước của chị? Chị Dung chân thành chia sẻ: Chỉ muốn có được sự chỉ đạo, điều hành của ngành chức năng, của huyện về việc mở lớp cho các bạn trẻ. Kèm theo là các điều kiện về hoạt động mở lớp (ví dụ như có chút kinh phí để trang trải nước nôi cho lớp, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học). Nếu mỗi huyện có được 1 lớp thôi cũng là nền tảng quý giá lắm rồi bởi vì không chuẩn bị từ hôm nay, lớp trẻ sau này sẽ xa lạ với vốn quý cha ông để lại. Nhìn ngay ở Kim Bôi, nhiều nghệ nhân dân gian vì tuổi cao, sức yếu đã qua đời, để lại một khoảng trống cho những người tiếp nối. Nếu không làm nữa, sự tiếp nối cũng dừng lại. Anh Nguyễn Quang Huy, Phó phòng VH-TT huyện Kim Bôi tiết lộ thêm: Chị Dung đang ấp ủ dự định sẽ phối hợp với trường DTNT huyện mở thí điểm giống như mô hình ở xóm Bo. Chỉ cần mỗi tuần một lần, các em có thể được học, được cảm nhận về dân ca, cồng Mường. Nếu mở được 3 lớp  (1 lớp có khoảng 15-20 em), các em sẽ là nhân tố cho việc truyền dạy cho nhiều nơi khác trên địa bàn huyện. Nhưng đấy cũng chỉ là ý tưởng và khó thành công nếu không có sự đồng hành chung của các cấp, ngành hữu quan. Chị cũng sợ điều ấy là xa vời vì ngay như điều đơn giản nhất là lớp học cần có 1 bộ cồng chiêng cũng không dễ dàng có, giống như tình hình đang diễn ra ở lớp học xóm Bo. Dẫu vậy, chị vẫn tin và hy vọng, tỉnh sẽ có những động thái tích cực sau lễ hội văn hóa cồng chiêng hoành tráng vừa qua.

 

 

                                                                                  Văn Tưởng

 

Các tin khác


Về “ Thủ đô gió ngàn - Chiến khu Việt Bắc"

Những ngày tháng Tư lịch sử, đoàn cán bộ, hội viên Hội Nhà báo tỉnh Hoà Bình và 2 tỉnh Hưng Yên, Thái Nguyên có dịp về thăm "Thủ đô gió ngàn - Chiến khu Việt Bắc” - An toàn khu (ATK) Định Hóa (Thái Nguyên). Chuyến đi mang nhiều ý nghĩa, giúp cán bộ, phóng viên, hội viên Hội Nhà báo các tỉnh được hiểu sâu hơn về lịch sử ATK Định Hóa nói riêng, lịch sử dân tộc nói chung.

Sài Gòn tháng Tư - Những sắc màu rực rỡ

Như một cơ duyên, cả 2 lần đến với Sài Gòn (thành phố Hồ Chí Minh) đều vào tháng Tư. Sài Gòn hoa lệ vào những ngày này được trang trí thêm cờ hoa, khẩu hiệu, tổ chức thêm nhiều sự kiện kỷ niệm Ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước (30/4), Ngày Quốc tế lao động (1/5)… Bởi thế, lòng người cũng hân hoan, hứng khởi. Muốn đi thật nhiều, cảm nhận thật nhiều về một thành phố giàu lịch sử và văn hóa, một đô thị sôi động và luôn rực rỡ sắc màu.

Khát vọng cống hiến vì miền Nam ruột thịt

Cứ mỗi dịp tháng 4 hằng năm, những cựu binh tham gia kháng chiến chống Mỹ lại cùng tề tựu để nhớ về thời hoa lửa lên đường đi chiến đấu với nhiệt huyết và khát vọng cháy bỏng vì độc lập và thống nhất đất nước. Mỗi người một hoàn cảnh, người gác việc học hành, tạm biệt người yêu lên đường kháng chiến, người là con độc nhất trong gia đình viết đơn tình nguyện đi bộ đội, thanh niên xung phong… với tâm thế được tận hiến cho Tổ quốc.

Khởi sắc vùng chuyển dân lòng hồ sông Đà

Phương châm "nơi ở mới tốt hơn nơi ở cũ” được nhắc đi nhắc lại trong suốt hành trình triển khai Đề án ổn định dân cư, phát triển KT-XH vùng chuyển dân sông Đà. Cùng với những chính sách thiết thực, hiệu quả, những điều chỉnh kịp thời phù hợp với tình hình thực tế, đời sống nhân dân vùng tái định cư các dự án thủy lợi, thủy điện từng bước ổn định.

“Xe đạp thồ” - Huyền thoại trong chiến thắng Điện Biên Phủ

Đến thăm Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, chúng tôi được chị Ngô Thị Lai, cán bộ Bảo tàng giới thiệu tham quan, tìm hiểu khá nhiều hiện vật quan trọng, độc đáo, góp phần làm nên chiến thắng lừng lẫy năm châu 70 năm về trước. Một trong những hiện vật ấy là chiếc xe đạp thồ huyền thoại.

Ký ức về "mùa hè đỏ lửa" Thành cổ Quảng Trị năm 1972

Cho đến nay, sau 52 năm, trận chiến khốc liệt nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, được mệnh danh là "mùa hè đỏ lửa” với sự huy động lực lượng lớn chưa từng có trong 81 ngày đêm giằng co từng mét đất, ngôi nhà giữa bom rơi, đạn nổ vẫn còn in đậm trong ký ức quân và dân cả nước cũng như lớp thanh niên tỉnh Hòa Bình lên đường đến với chiến trường Quảng Trị, góp phần tô thắm trang sử hào hùng của dân tộc trong hành trình giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục