Còn nhiều mỏ khai thác thủ công, gây nguy hiểm và mất an toàn lao động. (Ảnh tại một mỏ đá hoạt động trên địa bàn xã Cao Dương).
(HBĐT) - Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 130 doanh nghiệp tham gia hoạt động khoáng sản với 171 mỏ đã được cấp phép hoạt động. Trong đó, khoáng sản khai thác chủ yếu là nhóm dùng làm VLXD (85 mỏ). Các nhóm khoáng sản khác được khai thác, sử dụng cho tiêu dùng trong nước là chính. Quy mô đầu tư cho các mỏ từ nhỏ lẻ, tận thu đến 60 tỷ đồng/dự án.
Thực trạng hiện nay, khoáng sản làm VLXD được khai thác và chế biến tại chỗ (đá vôi, đá bazan) với các dự án có công nghệ hợp lý, tập trung nhiều ở các huyện Lương Sơn, Kim Bôi, Tân Lạc, Cao Phong. Có 2 phương pháp khai thác chính là khai thác từ ngoài vào trong, từ trên xuống gây nguy hiểm và mất an toàn lao động; khai thác cắt tầng có độ an toàn cao nhưng chi phí xây dựng hạ tầng lớn. Đối với khoáng sản làm vật liệu sản xuất xi măng phần lớn đang trong giai đoạn đầu tư xây dựng cơ bản mỏ hoặc khai thác, chế biến chưa đạt công suất thiết kế. Dây chuyền công nghệ ở mức độ tiên tiến, đang được lắp đặt hoặc chạy thử nên chưa đánh giá đúng mức hiệu quả KT-XH mang lại. Các mỏ than, kim loại, phi kim khác khai thác chủ yếu theo quy mô nhỏ, không chế biến tại chỗ, không được thăm dò, đánh giá về chất lượng và trữ lượng trước khi cấp phép khai thác nên nhiều mỏ chưa tìm thấy trữ lượng lớn quặng để hoạt động. Thêm vào đó là công nghệ khai thác thủ công, lạc hậu, sản phẩm cuối cùng là quặng thô đem bán, không qua chế biến tinh gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý về hoạt động cũng như nghĩa vụ tài chính với Nhà nước, ít đem lại hiệu quả KT-XH, ảnh hưởng xấu đến cảnh quan môi trường. Hiện có 4 cơ sở chế biến quặng kim loại được UBND tỉnh cấp giấy phép đầu tư nhưng nguồn khoáng sản làm nguyên liệu chưa đảm bảo cho các nhà máy hoạt động lâu dài. Thực tế việc chế biến quặng còn sử dụng máy móc, thiết bị lạc hậu.
Ông Nguyễn Văn Dật, Phó Giám đốc
Hiện, toàn tỉnh có 85 dự án khai thác khoáng sản được UBND tỉnh phê duyệt báo cáo tác động môi trường và dự án cải tạo phục hồi môi trường. Tổng số tiền đã thực hiện ký quỹ BVMT khoảng 90 tỷ đồng, trong đó, khoảng 4,5 tỷ đồng đã ký quỹ vào ngân hàng. Số cơ sở thuộc đối tượng cam kết BVMT có 38 cơ sở, 13 DN thực hiện ký quỹ với số tiền ký quỹ khoảng 3 tỷ đồng. Việc kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm đối với các vi phạm pháp luật về khoáng sản được thực hiện đúng quy định nhưng việc chấp hành của các cơ sở chưa thực sự nghiêm túc, vẫn còn tình trạng ô nhiễm môi trường và sự cố môi trường.
Để thực hiện nghiêm chính sách về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với BVMT mang lại hiệu quả thiết thực, theo ông Phó Giám đốc Sở TN&MT tỉnh, cần quan tâm đến công nghệ khai thác, xử lý môi trường khai thác, phục hồi môi trường sau khai thác. Công nghệ khai thác liên quan trực tiếp đến nguy cơ rủi ro, sạt lở, sập núi, tai nạn lao động, vấn đề đá văng do nổ mìn, bồi lấp khu vực xung quanh do sạt lở và bùn thải vào mùa mưa. Trong xử lý môi trường khai thác, lưu tâm đến đầu tư xử lý nước thải mỏ khi khai thác đá, tuyển quặng, đầu tư hệ thống xử lý bụi vì đây là nguồn phát thải bụi không kiểm soát, xử lý bụi tại khu vực nổ mìn, chế biến, vận chuyển, phun sương dập bụi. Giải pháp phục hồi môi trường sau khai thác như gia cố bờ moong, bờ mỏ, trồng các loại cây tại các mỏ sau khai thác, xử lý nước thải, bùn thải đối với chế biến và tinh luyện quặng vàng. Các vấn đề liên quan đến lợi ích của các bên liên quan tới dự án, vấn đề về chính sách văn bản, chính sách liên quan về hoạt động khai thác khoáng sản và BVMT cũng cần tiếp tục hoàn thiện.
Bùi Minh
Nhiều quận huyện ở Hà Nội và Hòa Bình xuất hiện mưa giông lớn kèm mưa đá, hạt đá to bằng đầu ngón tay, nhanh chóng tan khi tiếp đất.