Tháng 5, tháng 6, khi nắng hạ đổ lửa, dòng sông Đà thôi xanh màu ngọc bích quyến rũ để khoác lên lớp áo sẫm màu phù sa. Đó là dấu hiệu không lẫn vào đâu được: sông Đà vào mùa... "đá nổi”, hay còn gọi là mùa đón lũ.
Sông Đà mùa đón lũ
Bạn tôi - người từng nhiều lần xuôi ngược trên lòng hồ Hòa Bình bảo rằng, ai quen với sông Đà mùa nước nổi thì nên thử một lần đi mùa nước cạn, hay còn gọi là mùa đón lũ. Bởi khi ấy, sông Đà dữ dội như một con thủy quái. Tò mò và không cần đắn đo lâu, ngày cuối tuần tôi gọi điện cho Cường, một tay sông nước thứ thiệt ở đất Thung Nai (Cao Phong). Hẹn hò chóng vánh, chiều tối tôi đã có mặt cùng Cường đi giăng câu đêm trên hồ.
Con đường Tây Tiến từ dốc Cun vào vùng hồ trên đất Thung Nai quanh co uốn lượn nay đã được mở rộng, trải nhựa. Đập vào mắt tôi không còn là sông Đà trữ tình như tranh thủy mặc, mà là một khung cảnh hoang sơ, khốc liệt. Lòng hồ cạn, ngấn nước in hằn trên vách đá để lộ mức rút sâu đến hàng chục mét. Hàng nghìn mỏm đá từng bị nhấn chìm dưới lòng nước, nay trồi lên tua tủa như răng cá mập. Mỗi đảo đá như một lưỡi dao sắc lẹm, khiến những người lần đầu nhìn thấy không khỏi rùng mình.
"Đi câu mùa này phải thật thạo lạch”, Cường vừa điều khiển mũi thuyền vừa nói lớn trong gió. "Nhiều đảo đá lắm. Đá tai mèo sắc và cứng. Va vào là vỡ thuyền như chơi”. Tôi vừa phục tay nghề của người lái thuyền, vừa thấy lạnh sống lưng. Đêm đen đặc sánh, thuyền nhỏ chòng chành giữa sóng và đá sắc, người yếu bóng vía như tôi không khỏi thấp thỏm, lo âu. Nhưng rồi, cảm giác lo lắng dần bị lấn át bởi sự háo hức. Cái thú lênh đênh giữa sông nước, thả câu trong đêm tĩnh lặng, nghe tiếng cá quẫy xa xa... hoá ra mê hoặc và lôi cuốn đến vậy.
Lòng hồ Hòa Bình là một trong những vùng nước ngọt nhân tạo lớn nhất cả nước, với dung tích trên 9,3 tỷ m3 nước. Do vậy, đây cũng được xem là vùng nước ngọt giàu tài nguyên cá, tôm bậc nhất. Ngoài cá tự nhiên, mỗi năm tỉnh còn thả bổ sung nguồn lợi thủy sản với hàng trăm tấn cá giống. Xưa, người dân sống quanh vùng hồ vốn là người bản địa. Người ta quen với lối sống sản xuất nông nghiệp canh tác lúa nước truyền thống. Nhưng sau khi ngăn đập Nhà máy thủy điện Hòa Bình, cả một vùng đất rộng lớn chìm sâu dưới đáy, trở thành vùng nước mênh mang. Dần dà, những người dân vốn chỉ quen cấy cày, sản xuất nông nghiệp chuyển sang nghề đánh bắt cá.
Gặp lão ngư Đoàn Viết Thành ở xóm Săng Bờ, xã Vầy Nưa (Đà Bắc) đang thả lưới cách bờ chỉ vài chục thước tay. Vốn là người ở vùng xuôi nhưng được vùng đất này nuôi dưỡng, bao năm bôn ba xuôi ngược sông Đà. Từ ngày dòng sông còn hung dữ với "170 thác, 130 ghềnh” ông đã là một tay chèo đò lão luyện trên sông. Đến khi ngăn đập, nước dâng, ông trở thành một ngư phủ trên sông. Vì lẽ đó, lòng hồ sông Đà ông thuộc như lòng bàn tay.
Dừng tay kéo một thước lưới, ông kể: "Chỗ tôi đang ở trước là đỉnh núi đấy. Dưới chân núi là làng cũ, giờ nằm sâu dưới cả trăm mét nước, dân phải leo lên núi để sống. Nhưng sống trên núi lại phải xuống hồ mưu sinh. Người chưa quen nước thì loạng choạng, chới với, rồi giăng câu, thả lưới trở thành sinh kế chính. Dẫu biết nghề này không phải lúc nào cũng "có cá, có cơm”. Mùa này cá ẩn sâu, ít di chuyển. Thả 3 tay lưới dài hơn 300m, từ chiều đến rạng sáng chỉ được 2 con cá bằng đầu ngón tay”, ông Thành lắc đầu ngao ngán nhìn về phía lòng thuyền.
Không chỉ ngư phủ, mà những ngư dân làm nghề nuôi cá lồng trên vùng hồ sông Đà cũng đang như "nín thở” chờ nước về. Ánh mắt xa xăm hướng về phía lòng hồ, giọng Chủ tịch UBND xã Vầy Nưa (Đà Bắc) Xa Văn Si trầm buồn: Chưa năm nào mức nước lòng hồ xuống thấp như năm nay. Thời điểm này mức nước hồ đã xuống đến 20 - 30m. Có những mỏm đá từ ngày ngập nước chưa bao giờ lộ, giờ cũng "đứng” trên mặt nước cả vài mét. Nước xuống mình lo, dân lo. Cả trăm lồng cá, là tài sản, là cuộc sống của cả trăm hộ dân cứ phải theo con nước, chẳng thể nói trước được điều gì...
Những phận người lênh đênh nơi "đáy lũ”
"Mùa nước cạn như giờ, đói lắm”, Cường nhâm nhi bát rượu lắc đầu. Cuộc mưu sinh nơi đây được ví như một cuộc chiến sinh tồn. Không chỉ với sóng nước mà cả với sự khắc nghiệt của tự nhiên. "Mùa này đêm đi câu, ngày về không. Nhưng đến tháng 9 trở đi thì mỗi tay lưới gỡ cá đến mỏi tay”, Cường nói, mắt hướng về những đoàn thuyền câu lặng lẽ neo ở khu vực Thung Bang.
Không chỉ có dân bản địa, những người từ các địa phương dưới xuôi cũng lên đây, lấy lòng hồ làm nhà. Đêm đêm, ánh đèn từ những con thuyền câu vỡ ra trên mặt nước rồi nhanh chóng tan vào đêm đen. Đó là những người như Cường, như Tân, như anh ngư phủ tên Tình chúng tôi gặp lúc giăng câu. Họ cũng là những phận người lênh đênh nơi "đáy lũ”.
Nửa đêm, thuyền chòng chành theo sóng. Cường đã ngủ, còn tôi vẫn thao thức, nhớ đến chị Hạnh, người đàn bà đơn độc sống bằng nghề thu mua tôm cá khắp vùng lòng hồ tôi gặp cách đây chưa lâu. Như một người quen, chị kể về câu chuyện của đời mình, đời sông nước. Ngày nào cũng vậy, mưa cũng như nắng, chị Hạnh chèo thuyền từ xóm Bích Trụ, xã Hòa Bình (TP Hoà Bình) đến khu vực ngã 5 sông thuộc địa bàn xã Vầy Nưa (Đà Bắc) thu mua tôm cá của dân chài lưới. Gặp chị lần gần nhất, thấy chị đen hơn, gầy hơn.
Sáng sớm, thuyền cập bến Thung Nai. Mùa lễ hội lòng hồ đã hết. Bến thuyền vắng vẻ. Thuyền về neo đậu kín bến. Cả bến lèo tèo người mang bán vài mớ cá tép nhỏ. Ông Bùi Văn Hùng, một lão ngư trên vùng hồ ngồi trên mũi thuyền lắc đầu ngao ngán: "Đánh cả đêm mà chỉ được vài con cá tép, bán cũng chẳng ai mua. Mang về cũng chỉ để cho không”.
Một đêm lênh đênh giữa lòng hồ, dẫu chẳng câu được gì nhưng Cường vẫn cười tươi. Bởi lâu lắm rồi và cũng có nhiều lần lỡ hẹn, chúng tôi mới có một đêm rượu bên nhau giữa mùa "đá nổi”. Sông Đà, không chỉ là dòng chảy dữ dội hay thơ mộng, mà còn là dòng chảy của những phận người gắn bó, sinh tồn và chắt chiu trong từng nhịp sóng. Ở nơi ấy, giữa mùa đón lũ, không chỉ có "đá nổi”, mà còn có cả nghị lực và khát vọng vươn lên của những phận người lênh đênh về một cuộc sống no đủ, yên bình...