Quán triệt Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương đã tích cực triển khai thực hiện và đạt được những kết quả tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn tồn tại những khó khăn cần khắc phục... Bởi vậy, theo một số chuyên gia kinh tế nên chăng cần có thêm những giải pháp bổ sung.

 

Khó khăn trước mắt…

Theo TS. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, giai đoạn 2006 – 2010 nền kinh tế Việt Nam có cơ hội thuận lợi lớn, mức đầu tư cao, thị trường mở rộng, đà tăng trưởng tốt, nhưng tăng trưởng giảm, lạm phát cao và bất ổn nghiêm trọng. Cụ thể từ 1996 - 2000, CPI bình quân là 3,4% còn tăng trưởng GDP bình quân là 6,96%. Các con số tương ứng của giai đoạn 2001 - 2005 là 5,1% và 7,51%; giai đoạn 2006 - 2010 là 11,4% và 7,2%. Như vậy, trong vòng 5 năm, tính cộng dồn đơn giản, lạm phát đã tăng gần 60% trong khi tổng tăng trưởng GDP chỉ đạt 35,1%. Chưa tính đến việc phân bổ lợi ích tăng trưởng có xu hướng tập trung cho nhóm người giàu và đầu cơ, chỉ hai con số nêu trên đã đủ chứng tỏ thu nhập thực tế và mức sống thực của người dân, nhất là tầng lớp nghèo, bị giảm sút rất mạnh. Trước tình hình trên, hàng năm Chính phủ đều phải nỗ lực rất lớn trong điều hành để kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô. Các giải pháp thực thi chủ yếu đều mang tính ngắn hạn, tình thế, chưa tập trung xử lý các vấn đề cơ bản như cơ cấu, hiệu quả và sức cạnh tranh.

Bàn về vấn đề này, các chuyên gia kinh tế cũng nhận định, hiện nay Việt Nam đang phải đối mặt với những khó khăn trong nền kinh tế như áp lực tăng chỉ số giá cả trong những tháng cuối năm, sự biến động của tỷ giá ngoại tệ - VND, lãi suất cao, doanh nghiệp gặp khó khăn về vốn…Tính từ đầu năm 2011, giá dầu thô, giá một số nguyên vật liệu cơ bản, giá lương thực, thực phẩm trên thế giới tiếp tục xu hướng tăng mạnh, tác động của biến động mất ổn định chính trị, xã hội tại Bắc Phi và Trung Đông, thiên tai, dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp...đã ảnh hưởng đến nền kinh tế của Việt Nam. Mặc dù, nhà nước đã chủ động nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khoá thời gian qua để ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế trong điều kiện tiềm lực kinh tế của đất nước còn hạn chế, cũng như việc điều chỉnh tăng giá điện, xăng dầu…Tuy nhiên, những yếu tố đó vẫn không tránh khỏi việc làm giá cả trong nước tăng, gây nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô.

Bài học cũ vẫn còn mới

Theo ông Trần Xuân Giá, nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư, trong những năm 1986-1989, kinh tế vĩ mô của chúng ta rối loạn nghiêm trọng, kinh tế tăng trưởng rất thấp và lạm phát rất cao. Năm 1986 GDP chỉ tăng 2,8%, mà lạm phát đến 874% so với năm trước đó. Người dân không ai muốn giữ tiền trong tay, khi có tiền thì mua bất kể cái gì có thể mua được làm cho hàng hóa trên trị trường vốn đã khan hiếm, càng khan hiếm hơn…Người dân mua bán những thứ hàng lâu bền một chút, kể cả hàng mới cũng như hàng đã qua sử dụng như quạt máy, bàn là, TV, máy thu thanh, tủ lạnh….đều bằng vàng, “một cách phổ biến” trong khi nhà nước cấm kinh doanh vàng “một cách triệt để”.

Sở dĩ có tình hình trên, theo ông Giá là do nhiều nguyên nhân, nhưng trực tiếp và rất quan trọng là nhà nước phát hành tiền nhiều quá mức (kể cả việc phát hành tiền vì lý do bất khả kháng) gây lạm phát phi mã, lòng tin vào đồng tiền của người dân xuống đến tận đáy!. Xuất phát từ nhận định này, Chính phủ đưa ra hàng loạt giải pháp làm cho “VNĐ quý lên” bằng các biện pháp “sôc”: vừa thu hút tiền thừa trong lưu thông về (thí dụ, áp dụng lãi suất tiết kiệm đến 12%/tháng...) vừa hạn chế tối đa việc bơm thêm tiền vào lưu thông (thí dụ, không phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách, mà trước hết là ngừng việc cấp phát vốn cho DNNN; không phát hành tiền để ngân hàng làm vốn cho vay....). Một giải pháp hút tiền về rất hữu hiệu là nhà nước vay vàng về bán cho dân và để thực hiện nhanh chóng giải pháp này, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng có quyết định cho tư nhân kinh doanh vàng trang sức, mà trước đó “cấm triệt để”... Nhờ đó, cùng với các biện pháp khác về phối hợp chặt chẽ trong chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, trong điều kiện hết sức khó khăn, sản xuất chưa đẩy lên nhanh ngay được, trong khi viện trợ từ Liên Xô và các nước XHCN bị cắt giảm gần hết, Mỹ vẫn tiếp tục thực hiện chính sách bao vây, cấm vận đối với Việt Nam..., chúng ta đã chống lạm phát phi mã thành công, sức mua của VNĐ tăng dần và giữ ổn định cho đến 2005-2006. Việc dùng vàng trong thanh toán giảm đáng kể. Kế hoạch 5 năm 1996-2000, kinh tế tăng trưởng bình quân 7%/năm, lạm phát chỉ 3,3%/năm. Còn kế hoạch 5 năm 2001-2006, kinh tế tăng trưởng 7,5%/năm, lạm phát cũng chỉ 5,1%/năm.

Cần thêm những giải pháp bổ sung

Theo ông Giá, trong kế hoạch 5 năm 2006-2010, lạm phát cao quay trở lại, bình quân chỉ số lạm phát đã lên 11,4%/năm và bước sang năm 2011, ngoài những nguyên nhân nội tại vốn có trong nền kinh tế Việt Nam, chúng ta phải đối phó với ít nhất 3 vấn đề cùng một lúc. Thứ nhất, phải chống đỡ các yếu tố gây lạm phát đến từ bên ngoài, như giá thế giới, nhất là giá lương thực tăng cao kéo theo tăng giá trong nước. Thứ hai, chống đỡ “nợ” các năm trước để lại, chẳng hạn độ trễ chính sách tiền tệ, tài khóa..., thậm chí cả yếu tố lạm phát tâm lý. Lạm phát năm ngoái ở mức 11,75% cũng đang để lại gánh nặng “nợ” cho năm nay. Thứ ba, chính là những yếu tố do các quyết định mới, cần thiết trong điều hành gây ra, ví dụ tăng giá điện, điều chỉnh tỷ giá... Vì vậy, nếu không có giải pháp kịp thời, đồng bộ, mạnh mẽ, thì lạm phát năm 2011 nay sẽ rất căng thẳng.

Trước tình hình đó, việc Chính phủ ban hành NQ11, ngày 24 tháng 2 năm 2011 về ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát là rất cần thiết và cấp bách. Những giải pháp nêu trong Nghị quyết này là tương đối đồng bộ, đúng đắn, đã chạm được tới 3 cái chốt rất quan trọng gây ra lạm phát trước mắt, đó là giảm tốc độ tăng tổng phương tiện thanh, giảm tốc độ tăng tín dụng; giảm bội chi ngân sách và cắt giảm bớt đầu tư công…. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, đây vẫn mới là những giải pháp mang tính ngắn hạn, tình thế. Và ngay trong các giải pháp ngắn hạn này cũng mới tập trung chủ yếu vào việc giảm tốc độ bơm thêm tiền vào lưu thông. Vì vậy, nên chăng cần bổ sung thêm một số giải pháp nữa: Một, cần có thêm các giải pháp rút bớt tiền trong lưu thông về song song với các giải pháp giảm tốc độ bơm thêm tiền vào lưu thông đã nêu trong NQ 11. Hai, bên cạnh các giải pháp ngắn hạn, tình thế cần phải có ngay các giải pháp chống lạm phát cơ bản hơn. Ba, cần xem xét kỹ hơn chủ trương “xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do”, bởi lẽ nếu chỉ xuất phát từ chỗ xóa bỏ kinh doanh vàng miếng là để giảm bớt việc dùng vàng trong thanh toán thì điều đó không có nhiều ý nghĩa. Việc “cấm” là cần thiết chỉ trong những trường hợp thật cần thiết mà thôi, đừng lạm dụng nó một cách phổ biến. Việc “xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do” có thể là cần thiết, nhưng không phải lúc này. Chỉ nên thực hiện việc “cấm”, “xóa” khi có ai đó thay thế để đáp ứng nhu cầu của người dân.

Theo PGS.TS Võ Đại Lược, Viện Khoa học – Xã hội Việt Nam, gói giải pháp của chính phủ là những giải pháp thắt chặt tài chính và tiền tệ, có thể xem là những giải pháp tình thế. Nhưng tình hình bất ổn kinh tế vĩ mô Việt Nam lại có căn nguyên ở mô hình tăng trưởng – tăng trưởng bằng vốn và tài nguyên là chính. Do vậy muốn xử lý cơ bản vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô phải tính đến những giải pháp dài hạn – chuyển đổi mô hình tăng trưởng – tái cấu trúc nền kinh tế.

Ông Lược cũng cho rằng, tình hình bất ổn vĩ mô hiện nay có nguyên nhân sâu sa từ mô hình tăng trưởng, do vậy những giải pháp tài chính và tiền tệ có thể tạm thời ổn định được tình hình. Nhưng phải áp dụng các giải pháp cơ bản theo hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng mới có thể tạo được cơ hội ổn định kinh tế vĩ mô tương đối bền vững và nền kinh tế có thể phát triển có hiệu quả.

                                                                             Theo Báo ĐCSVN

 

Các tin khác


Huyện Lạc Sơn: Vượt khó thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội

Phát huy những kết quả đã đạt được trong năm 2023, ngay từ quý I/2024, huyện Lạc Sơn tiếp tục nỗ lực vượt khó, quyết tâm thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu kinh tế - xã hội (KT-XH) quan trọng.

Huyện Tân Lạc: Tỷ lệ tưới, tiêu chủ động đạt 80% diện tích canh tác

Theo báo cáo của UBND huyện Tân Lạc, trong giai đoạn 2021 - 2023, huyện đã ưu tiên đầu tư, nâng cấp sửa chữa, xây dựng mới nhiều công trình hạ tầng thủy lợi, giao thông nội đồng.

Đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm, gia tăng chế biến và phát triển thị trường nông lâm thủy sản

Căn cứ Quyết định số 482/QĐ-UBND, ngày 28/3/2024 của UBND tỉnh về ban hành Kế hoạch hành động đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm, gia tăng chế biến và phát triển thị trường nông lâm thủy sản tỉnh Hòa Bình năm 2024, Sở NN&PTNT ban hành Kế hoạch hành động số 262/KH-SNN, ngày 15/4/2024 về đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm, gia tăng chế biến và phát triển thị trường nông lâm thủy sản năm 2024.

Tín hiệu kinh tế khởi sắc ở huyện Cao Phong

Những ngày trung tuần tháng 4, trên các vườn mía xã Hợp Phong (Cao Phong), nông dân tập trung thu hoạch mía bán cho tiểu thương. Anh Bùi Văn Biện cùng một vài người dân vác từng bó mía từ vườn ra trục đường lớn. Mồ hôi nhễ nhại nhưng trên gương mặt anh toát lên tinh thần lao động hăng say. Anh Biện cho biết, vụ mía năm nay giá bán thấp hơn cuối năm trước từ 2.500 - 3.000 đồng/cây. Tuy nhiên, cây mía phát triển tốt nên được tiểu thương đánh giá cao về chất lượng và tiêu thụ nhanh.

Hiệu quả chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở xã Mai Hạ

Khai thác tốt tiềm năng, lợi thế của địa phương, thời gian qua, xã Mai Hạ (Mai Châu) khuyến khích nhân dân tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, từ cây lương thực kém hiệu quả, vùng canh tác không chủ động nước tưới sang trồng các loại cây chịu hạn, cây có hiệu quả kinh tế cao nhằm nâng cao giá trị sử dụng đất.

Quý I/2024, chỉ số sản xuất công nghiệp ước tăng 5,5% so với cùng kỳ

Trong quý I/2024, chỉ số sản xuất công nghiệp của tỉnh ước tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục