Lịch Đoi của người Mường.

Lịch Đoi của người Mường.

(HBĐT) - Lịch Đoi sự tổng hợp, đúc kết kinh nghiệm qua nhiều đời của người Mường xưa và là biểu hiện rực rỡ của tư duy Mường - Việt trong nhận thức thế giới, một sự tổng hợp của các sự phân kỳ, phân thời gian trong suốt một năm dựa trên cách tính toán, căn cứ vào sự vận động của mặt trăng, kết hợp với hậu vật. Lịch Mường cần được lưu giữ bởi hiện tại ít người biết xem lịch Đoi, chỉ những thầy mo có tuổi mới có nhận xét chính xác từng ngày trong tháng và từng tháng trong năm.

 

Theo cách tính của người Mường xưa, sao Đoi chuyển dịch nhanh hơn mặt trăng, vị trí giữa sao Đoi và mặt trăng tùy theo các tháng trong một năm, khi sao Đoi vượt qua mặt trăng, người Mường gọi đó là ngày Đoi vào hay ngậm Đoi. Căn cứ vào các ngày Đoi vào và sự chuyển dịch của các ngày đó mà người Mường phân biệt tháng, ngày trong một năm. Người Mường ở Mường Bi có cách tính lịch khác với người Mường ở các nơi khác gọi là cách tính ngày lùi, tháng tới, tháng giêng lịch Mường Bi ứng với tháng 10 của lịch Mường các nơi khác và tháng 10 âm lịch. Theo lịch Đoi, người Mường Bi quan niệm một năm có 12 tháng, trên mỗi thẻ có khắc ký hiệu khác nhau mỗi tháng có tên riêng, để tính toán, xem ngày, giờ tốt xấu cho khởi sự công việc, các tháng đó đều tính sớm lên so với tháng âm lịch của người Việt 4 tháng và bắt đầu một năm mới tính theo lịch của người Mường vào tháng 4 lịch Đoi. Bởi vậy, người Mường ở Mường Bi mới có câu nói khái quát những đặc điểm trong sinh hoạt của dân tộc Mường: cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày lui, tháng tới.

Hiện nay chủ yếu chỉ có các ông Mo và số số ít người cao tuổi trong các vùng Mường biết xem lịch Đoi.

Lịch Đoi được người Mường xưa đúc kết từ nhiều đời rồi truyền lại cho con cháu sau này, trên đó có vạch khắc những hình tượng trưng cho ngày mưa, ngày bão, ngày hao, ngày lỗ, ngày cá, ngày thú. Lịch Đoi người Mường làm trên 12 thanh tre, có chiều dài mỗi thanh khoảng 20 cm, rộng chừng 3 cm, thể hiện 12 tháng trong năm. Cùng với những vạch khắc trên đó, người Mường xưa đã đúc kết được những ngày, tháng trong một năm theo quy luật tự nhiên; tên trong tháng lịch Đoi Mường có 10 tháng được đặt tên theo hệ số từ 1 đến 10, còn hai tháng còn lại là tháng giêng và tháng chạp đều có tên khác.

Lịch Đoi không thay đổi theo năm, 12 thanh tre được người Mường sử dụng trong suốt cuộc đời, trên đó đục lỗ, cảnh báo những ngày làm ăn thua lỗ hoặc thất bại, tháng nào càng nhiều lỗ càng nên tránh và có những ngày đại lỗ không làm một công việc gì hết. Theo qua niệm của người Mường, 1 tháng của người Mường có từ 29 đến 30 ngày, được khắc dọc sống của thanh tre, lịch được chia làm 3 tuần, mỗi tuần 10 ngày và có tên gọi khác nhau như thượng tuần gọi là ngày kâl, trung tuần gọi là ngày loồng; hạ tuần gọi là ngày cối. như vậy, ngày 11 trong lịch Đoi được gọi là 1 loồng và ngày 21 được gọi là ngày 1 cối, còn ngày mùng 1 gọi là ngày 1 kâl; một năm theo lịch Đoi được chia làm 8 giai đoạn và mỗi giai đoạn có tên gọi khác nhau. Thượng tuần - 10 ngày đầu gọi là ngày kâl, những ngày này người Mường tổ chức cưới xin, khánh thành, xây nhà mới, được vạch khắc cùng chiều với 10 ngày cuối tháng - hạ tuần Hạ tuần là những ngày hết trăng, người Mường thường không làm công việc gì hết trong những ngày này, nếu làm sẽ bị thua lỗ hoặc công việc sẽ không suôn sẻ. Trung tuần - 10 ngày giữa tháng dược vạch khắc ngược sống tre, khác chiều với ngày kâl và ngày hết trăng, được người Mường gọi là ngày loồng - ngày có trăng, nếu sinh vào ngày này trẻ con sáng dạ, thông minh.

Các thầy mo và người Mường vẫn thường chọn và làm mùa vào ngày Kâl tha, tháng một, chạp được coi là công việc làm ăn sẽ thuận lợi, sẽ được mát mẻ, nhẹ nhàng, còn làm nhà vào ngày râl trong tức tháng hai, tháng ba âm lịch sẽ được kín đáo, chắc chắn.

 

                                                                 HBĐT tổng hợp

Các tin khác


Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam trên địa bàn tỉnh lần thứ 3 năm 2024

Ngày 17/4, tại Nhà Văn hoá huyện Lạc Sơn, Sở Thông tin và Truyền thông phối hợp Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, UBND huyện Lạc Sơn tổ chức khai mạc Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam trên địa bàn tỉnh lần thứ 3 năm 2024.

Ấn tượng mô hình gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường

Năm học 2023 - 2024, Trường mầm non Bắc Sơn, xã Hùng Sơn, huyện Kim Bôi có 247 trẻ, chia thành 11 nhóm, lớp. Nhà trường có 36 cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên; 96,4% trẻ là người dân tộc Mường và dân tộc Dao. Bên cạnh thực hiện tốt công tác chăm sóc, giáo dục trẻ theo đúng quy định, nhà trường còn tạo dấu ấn với mô hình gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa Mường.

Công trình Đền thờ liệt sĩ Chiến trường Điện Biên Phủ đoạt giải thưởng Quy hoạch đô thị quốc gia

Chào mừng kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954-7/5/2024), chiều 15/4, tại trung tâm thành phố Điện Biên Phủ, Hội Quy hoạch Phát triển đô thị Việt Nam cùng Sở Xây dựng Điện Biên, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Điện Biên tổ chức lễ gắn biển "GIẢI ĐẶC BIỆT" trong hệ thống Giải thưởng Quy hoạch Đô thị Quốc gia lần thứ III (VUPA) năm 2022 cho công trình Đền thờ liệt sĩ Chiến trường Điện Biên Phủ.

Gặp mặt cơ quan báo chí, xuất bản, văn học nghệ thuật khu vực Trung du, miền núi Bắc Bộ

Chiều 15/4, tại TP Việt Trì, Ban Tuyên giáo T.Ư chủ trì, phối hợp với Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Quân khu 2 và Tỉnh ủy Phú Thọ tổ chức gặp mặt các cơ quan báo chí, xuất bản, văn học nghệ thuật khu vực Trung du, miền núi Bắc Bộ. Đồng chí Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư T.Ư Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo T.Ư chủ trì cuộc gặp mặt.

Tổ chức Tết cổ truyền Bunpimay cho lưu học sinh, sinh viên Lào

Ngày 15/4, Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Hoà Bình và Trường Cao đẳng Kỹ thuật Công nghệ Hoà Bình (TP Hoà Bình) phối hợp tổ chức Tết cổ truyền Bunpimay năm 2024 cho các lưu học sinh, sinh viên (HS, SV) Lào đang học tập tại 2 trường. 

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục