Nhóm nông nghiệp hữu cơ xóm Đầm Đa 1, xã Hợp Hòa (Lương Sơn) trồng các loại rau đậu được chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật đem lại giá trị kinh tế cao.

Nhóm nông nghiệp hữu cơ xóm Đầm Đa 1, xã Hợp Hòa (Lương Sơn) trồng các loại rau đậu được chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật đem lại giá trị kinh tế cao.

(HBĐT) - Có mặt trên cánh đồng rau hữu cơ xóm Đầm Đa 1, xã Hợp Hòa (Lương Sơn) chúng tôi bắt gặp hình ảnh những đôi tay thoăn thoắt hái rau lúc trời chiều. Ngừng tay hái, nở nụ cười tươi giữa cánh đồng bát ngát rau xanh, chị Đinh Thị Nga, thành viên trồng rau hữu cơ nhóm Đầm Đa 1 vui vẻ cho biết: Cảm quan ban đầu cho thấy rau vô cơ (sử dụng phân bón hóa học hoặc có thể sử dụng thuốc kích thích tăng trưởng) trông màu sắc tươi, ngon hơn rau hữu cơ. Người dân ở đây lại thiếu hiểu biết về tính ưu việt của rau hữu cơ nên họ thường chọn mua rau vô cơ.

 

Chị Nguyễn Thị Dung, Trưởng nhóm nông nghiệp hữu cơ (NNHC) Đầm Đa 1 cho biết: Từ năm 2009, đón đầu nhu cầu thực phẩm sạch của thị trường, tạo ra vành đai nông nghiệp an toàn huyện xây dựng mô hình NNHC, nhóm của chị hoạt động với 5 thành viên, diện tích 3.000 m2. Cánh đồng rau này trồng khoảng 17,18 ha gồm các loại rau cải, rau thơm, mùa này có thêm su hào, bắp cải, súp lơ... Thu hoạch bình quân 7-8 tạ rau/ tháng với giá bán 14.000 đồng/kg, thị trường tiêu thụ ổn định chủ yếu bán cho Công ty Tâm Đạt (Hà Nội) và trường cao đẳng Cộng đồng. Thời vụ rau ăn lá chỉ trồng trong 1 tháng, nhóm tự chủ động nguồn giống. Thời gian thu hoạch rau từ 16-20h hàng ngày theo đơn đặt hàng và thực hiện sơ chế như rửa sạch, bỏ lá già, đóng túi khoảng 300-400g/túi rồi cho vào thùng xốp khoảng 20 kg/thùng chở lên HTX nông sản hữu cơ xóm Mòng, đảm bảo 6h sáng hôm sau là rau có mặt ở một số siêu thị Hà Nội theo đơn đặt hàng. Nhóm của chị có 1 giếng nước, 1 máy bơm tưới cho rau. Thu nhập bình quân của các thành viên khoảng 3 triệu đồng/người/tháng. Với tổng thu sau khi trừ chi phí, nhóm trích lại 1.000 đồng/kg làm quỹ, đến nay, số quỹ được khoảng 10 triệu đồng cho các chị em trong  nhóm vay không tính lãi phát triển kinh tế gia đình.

 

Ngoài ra, từ tháng 5/2012, tận dụng diện tích vườn, gia đình chị Dung thực hiện nuôi gà hữu cơ theo hình thức   chăn thả trên diện tích vườn 2.500 m2, bình quân 200-300 con/lứa, khoảng 6 tháng xuất 1 lứa.  Mô hình nuôi gà hữu cơ đã được cấp  chứng nhận PGS vào tháng 9 vừa qua. Chủ yếu xuất bán cho Công ty Vinagap giá 170.000 đồng/kg, đến nay đã thu được 2 lứa, trọng lượng bình quân từ 1,3-1,7 kg/con. Nguồn thức ăn cho gà từ kiểm soát rau không dùng phân hóa học, không có thuốc BVTV. Thời gian đầu mới làm, chị Dung phải mua giống, đến nay đã nuôi được 60 con gà mẹ ấp.

 

Đồng chí Phùng Thị Lan, Chủ tịch Hội Nông dân huyện cho biết: Từ cuối năm 2008, với sự hỗ trợ của dự án ADDA (Đan Mạch) và trường cao đẳng NN&PTNT Bắc Bộ (Xuân Mai - Hà Nội), Hội Nông dân huyện Lương Sơn đã triển khai mô hình trồng rau hữu cơ trên địa bàn. Từ cuối năm 2009, các nhóm này đã thành lập liên nhóm rau hữu cơ gồm 4 bộ phận là điều hành, hỗ trợ sản xuất, marketing và bộ phận cấp giấy chứng nhận. Đến nay, Lương Sơn đã thành lập và duy trì được 14 nhóm NNHC có đăng ký, đủ tiêu chuẩn cấp PGS (chứng chỉ xác nhận nông dân tuân thủ các tiêu chuẩn hữu cơ của PGS được thực hiện trong dự án phát triển hữu cơ của Hội ND Việt Nam và tổ chức ADDA Đan Mạch) được thực hiện tại 5 xã Nhuận Trạch, Hợp Hòa, Hòa Sơn, Thành Lập, Liên Sơn và thị trấn Lương Sơn với tổng số 91 thành viên, tổng diện tích 104.133 m2, trong đó có 13 nhóm sản xuất rau hữu cơ với 79 thành viên, diện tích 49.763 m2, 1 nhóm sản xuất cây ăn quả hữu cơ có 12 thành viên, diện tích 50.900 m2 và 1 hộ nuôi gà hữu cơ.

 

Hiện có 3 Công ty đang hợp tác thu mua với liên nhóm là Công ty Vinagap, Tâm Đạt, Tràng An. Sản lượng rau hữu cơ PGS được tiêu thụ qua hợp đồng 50.702 kg bình quân 5.000 đồng/kg, lượng rau hữu cơ PGS được bán tự do tại địa phương từ 500-1.000 kg/ tháng. Tổng sản lượng bán ra tăng so với năm trước từ 1.000-1.500 đồng/kg.

 

Theo đồng chí Nguyễn Anh Đức, Trưởng phòng NN&PTNT huyện Lương Sơn: Sản xuất rau hữu cơ là một trong những mục tiêu trọng điểm để phát triển nông nghiệp bền vững theo hướng SXHH của huyện Lương Sơn. Thời gian tới, huyện sẽ duy trì và nâng cao chất lượng các nhóm NNHC đã có; mở rộng quy mô, diện tích, địa bàn, chủng loại, chất lượng sản phẩm; liên kết người sản xuất với  các siêu thị để thu hút vốn đầu tư, đảm bảo đầu ra cho sản phẩm, tiến tới xây dựng thương hiệu rau hữu cơ huyện Lương Sơn.

 

 

                                                                                                Đinh Thắng

 

Các tin khác


Thông báo kết thúc niên vụ Cam Cao Phong 2022 – 2023

(HBĐT) - UBND huyện Cao Phong vừa ban hành Công văn số 1120 gửi các cơ quan thông tấn báo chí T.Ư và địa phương, các sở, ngành trong tỉnh thông báo kết thúc niên vụ Cam Cao Phong 2022 – 2023.

Thúc đẩy công nghiệp chế biến sâu thủy sản

Trong tháng 5/2023, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 900 triệu USD, giảm 14,4% so với cùng kỳ năm 2022 và các mặt hàng chủ lực đều giảm sâu từ tháng 4, như cá tra giảm 52%, tôm sụt giảm 35%, cá ngừ giảm 38% và mực bạch tuộc giảm 11%...

Bàn giao cơ quan có thẩm quyền dự án đầu tư xây dựng và cải tạo đường giao thông

(HBĐT) - Ngày 30/5, Bộ GTVT và UBND tỉnh tổ chức bàn giao cơ quan có thẩm quyền Dự án đầu tư xây dựng  đường Hòa Lạc - Hòa Bình và cải tạo, nâng cấp Quốc lộ (QL) 6 đoạn Xuân Mai - Hòa Bình theo hình thức BOT. Các đồng chí: Lê Đình Thọ, Thứ trưởng Bộ GTVT; Quách Tất Liêm, Phó Chủ tịch UBND tỉnh đồng chủ trì hội nghị.

Triển vọng phát triển cây nha đam tại xã Nhân Mỹ

(HBĐT) - Với kinh nghiệm nhiều năm xây dựng và phát triển mô hình vườn ao chuồng, bà Bùi Thị Lý ở xóm Ào U, xã Nhân Mỹ (Tân Lạc) đã chuyển đổi nhiều giống cây trồng, từ lúa nước đến các loại rau, củ, quả. Nhận thấy tiềm năng của cây nha đam có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao, bà Lý mạnh dạn đầu tư phát triển giống cây này tại địa phương.

Khơi thông nguồn vốn tín dụng, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng

(HBĐT) - Xác định nguồn vốn tín dụng có vai trò quan trọng đối với phát triển KT-XH địa phương, thời gian qua, ngành ngân hàng tỉnh đã quyết liệt thực hiện đồng bộ các giải pháp về tiền tệ, tín dụng góp phần tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng KT-XH ở mức hợp lý.

Hiện đại hóa công tác đánh giá người nộp thuế có dấu hiệu rủi ro trong quản lý, sử dụng hóa đơn

(HBĐT) - Nhằm góp phần hiện đại hóa công tác đánh giá người nộp thuế (NNT), nâng cao khả năng phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật thuế, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế, nâng cao tính tuân thủ pháp luật thuế của NNT, vừa qua, Tổng cục Thuế ban hành Quyết định số 18/QĐ-TCT về quy trình áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế.

Xem các tin đã đưa ngày:
Tin trong: Chuyên mục này Mọi chuyên mục