(HBĐT) - Hiện nay trong dân gian Mường có tồn tại ít nhất 2 bản sự tích thuộc thể loại văn vần dân gian truyền miệng kể về nguồn gốc của Lúa Gạo. Mỗi bản có nội dung mang tính ngã rẽ khác nhau, về tên gọi cũng khác nhau. Bài văn vần Mo đeé Kảw - Mo Đẻ Gạo, được sử dụng trong Mo tang lễ kể chuyện đêm khuya. Bài văn vần Đỏn bôông Kơm tlải lọ - Đón bông cơm trái lúa được sử dụng trong các nghi lễ làm vía. Qua khảo sát của tác giả cả hai bản kể trên chủ yếu lưu truyền trong người Mường ở vùng Lạc Sơn và một số huyện khác. Trong văn bản công bố trong cuốn “Vốn cổ văn hóa Việt Nam, Đẻ đất - Đẻ nước” của Trương Sĩ Hùng - Bùi Thiện Nhà xuất bản (Nxb) Văn hóa Thông tin, Hà nội 1995. Cuốn “Lễ hội Đình Khênh“ của chính tác giả, Nxb Thời đại 2011 đều có bản sưu tầm về hai bài văn vần trên.
Tuy nhiên, trong “Mo Mường Hòa Bình“ - UBND tỉnh Hoà Bình công bố tháng 10 - 2010. “Mo Mường”. Trong bộ 3 tập của Bùi Nợi, NXB Văn hóa Dân tộc năm 2012. Đây là hai bản Mo chủ yếu sưu tầm ở vùng Mường Bi, Tân Lạc, Hòa Bình, đều không có.
Tại sao lại xuất hiện hiện tượng trên, phải chăng việc canh tác làm ruộng ban đầu xuất hiện ở vùng Lạc Sơn, sau mới đến các vùng khác. Trong những đợt khai quật khảo cổ học ở hang xóm Trại, điểm di chỉ thuộc văn hóa Hòa Bình các nhà khoa học đã phát hiện những hạt thóc cổ có niên đại vạn năm.
Trong khi đó nội dung bài văn vần Đỏn bôông Kơm tlải lọ - Đón bông cơm, trái lúa kể về việc Vua Tu Dịt, Tu Dàng mường và dân sau trận đại hồng thủy bị nước cuốn mất sạch tài sản, đến nỗi nhà Vua ốm không có thóc, gạo để làm vía gọi các vong, vía lạc trở về. Dân Mường đã nhờ con chuột vàng, chuột đen lên trên Vua Trời xin giống lúa về để trồng, mới có cơm, gạo làm vía cho nhà vua. Từ đó, tục lấy gạo làm vật đi gọi vong, vía người đi lạc khỏi cơ thể và tục làm vía mới xuất hiện trong đời sống người Mường. Hay nói cách khác đây là sự tích kể về việc ra đời tục làm vía của người Mường.
Đang đêm ở trong rừng hai anh em nghe lũ ếch nhái, lũ côn trùng trò chuyện, kháo nhau:
- Chỗ này là suối/Chỗ kia là vũng, là khoang/
Tiếng Chằm lang bảo rằng: - Chỗ ấy nên ao thả cả/Cứ khai khẩn ra thành ruộng/Đào be bờ thành ao/Có ao hơn có vợt/Trông lúa nước hơn trồng lúa nương/Kẻ làm ruộng hơn kẻ làm nương/Làm nương ăn qua nhanh/Làm ruộng ăn suốt đời/Hết đời bố truyền đến đời con.
Nghe chuyện, hai chàng thợ săn cũng ngộ ra được nhiều điều. Sang hôm sau, chàng về kể lạu cho đức vua Dịt Dàng. Đức Vua anh minh, sáng suốt, ngài cho tập hợp dân Mường đi ngăn sông làm bai, khai khẩn đất sình lầy thành ruộng cấy lúa nước. Tiếp đến lại nhờ con chuột đen, chuột vàng đi vào thung lũng xa xôi để tìm được giống lúa về. Từ đó đến nay người Mường biết gieo cấy lúa nước. Để biết ơn con chuột, con người đành chấp nhận cho chúng ăn lúa ngoài đồng, hết vụ gặt chúng vào trong nhà tiếp tục cắn thóc, gạo.
Trong cả hai bài văn vần đều có chung một điểm là nhờ con chuột đen, chuột vàng, Mo đẻ gạo nói chúng đi vào thung sâu, Mo đi đón bông cơm, trái lúa nói là chúng đi lên trời xin được giống lúa về. Từ đo loài người mới có 40 giống lúa nước, 30 giống lúa nương.
Vấn đề ở đây ta thấy rất rõ hai nhân vật chuột được nhân cách hóa như con người, biết nói, cười, trả lời mọi câu hỏi, lý lẽ khá thông thái. Các giống chuột nói chung rất có hại với mùa màng của nông dân, chúng rất thích cắn lúa, hoa màu. Vậy tại sao người Mường lại chọn chuột làm con vật đi xin giống lúa? Cho đến ngày nay, họ vẫn tỏ ra mang ơn chúng qua việc nhắc đến chúng trong các nghi lễ Mo ? Vấn đề không đơn giản chỉ là nhân vật bịa ra để nói chơi, hẳn có một ẩn ý gì ở đây ?
Theo dân gian Mường, trên mặt đất này có rất nhiều giống chuột, phần nhiều chúng có lông màu tro, xám hay đen. Nhưng có một giống chuột màu lông màu vàng hay màu đen, chúng dặc biệt thích ăn lúa.
Từ đặc điểm trên theo giả thuyết của tôi, có lẽ hàng vạn năm trước thời tiền sử, con người đã nhận thấy giống chuột vàng ăn lúa hoang và mang chúng về hang, cho biết rằng đây là loài hạt cỏ không độc, thơm ngon. Có lẽ họ cũng đã thu hái lúa hoang về để ăn. Từ đó họ thuần dưỡng, chọn lọc tự nhiên, trải qua hàng nghìn năm đến thời sơ sử nghề trồng lúa nước mới hình thành.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Việt, Giám đốc Trung tâm tiền sử Đông -
Bùi Huy Vọng
(Xóm Bưng, xã Hương Nhượng, Lạc Sơn)
Ngày 15/4, Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Hoà Bình và Trường Cao đẳng Kỹ thuật Công nghệ Hoà Bình (TP Hoà Bình) phối hợp tổ chức Tết cổ truyền Bunpimay năm 2024 cho các lưu học sinh, sinh viên (HS, SV) Lào đang học tập tại 2 trường.