Những chuyến thăm khám tận nhà người bệnh, đối với bác sỹ Phạm Trọng Tươi không phải là chuyện hiếm.
Người dân gọi anh là "bác sĩ của bản”. Còn với đồng nghiệp, anh là người "giữ mạch sống giữa dòng Đà giang". 22 năm làm nghề, anh chưa từng rời đi. Người đàn ông ấy tên là Phạm Trọng Tươi, Trạm trưởng Trạm Y tế xã Vầy Nưa.
Người không rời bản
22 năm trước, có cậu sinh viên vừa tốt nghiệp tên Phạm Trọng Tươi nhận quyết định về công tác tại trạm y tế xã Vầy Nưa. Ngày đầu tiên về xã, anh đi thuyền cùng đoàn cán bộ. Gió sông tạt mặt, sóng hồ lắc lư, vách núi dựng đứng như thử thách bước chân người mới đến. Không ai nghĩ chàng trai ấy sẽ ở lại. Vậy mà anh đã gắn bó cả thanh xuân, cả đời người vào những nẻo đường hun hút của xã lòng hồ.
"Có người hỏi tôi sao không xin chuyển về gần nhà. Tôi chỉ nghĩ đơn giản: Mình đi rồi, ai lo cho bà con ở đây? Mỗi lần có người gọi điện nhờ tới khám, dù đêm hay mưa gió, tôi không nỡ từ chối. Phần vì trách nhiệm công việc, nhưng thôi thúc tôi nhất là vì họ thật sự cần mình” - bác sĩ Tươi chia sẻ.
Không phải ai cũng hiểu được quyết định ấy. Vì ở lại Vầy Nưa là chấp nhận không có giờ làm cố định, không có ca trực thay phiên hay khái niệm cuối tuần.
"Có lần đang ăn tối, nghe tiếng gọi cửa gấp, một phụ nữ khóc lóc báo tin con gái 6 tuổi sốt cao đến mức mê man. Không chần chừ, anh Tươi khoác áo, mang túi thuốc và đèn pin theo người nhà băng rừng, vượt dốc. Đến nơi, anh kê gối, hạ sốt, truyền dịch và chăm sóc bé suốt 3 tiếng đồng hồ. Đến nửa đêm thì hạ sốt. Mẹ bé vừa khóc vừa nói: May mà bác sĩ tới kịp...” - đồng chí Đinh Thế Hùng, Chủ tịch UBND xã Vầy Nưa kể lại.
Mỗi lần như thế là một lần níu chân người lương y ở lại, dù từng có nhiều cơ hội để rời đi.
Hành trình y đức qua những cung đường nước
Ở Vầy Nưa, mỗi xóm, bản cách nhau cả ngọn núi, đôi khi là một khúc sông dài. Có nơi đi được bằng xe máy vào mùa khô, có nơi chỉ có thể cập thuyền. Nhưng với bác sĩ Phạm Trọng Tươi, mọi khoảng cách đều được đo bằng sự cần thiết của người bệnh.
Ngày mưa thì trơn đá, ngày nắng thì bỏng rẫy, mùa nước nổi thì thuyền dập dềnh như tấm ván mỏng… Vậy mà suốt 22 năm, anh chưa từng từ chối một cuộc gọi khẩn cấp nào. Một đêm mưa như trút, có tiếng gọi từ bên kia lònghồ: sản phụ chuyển dạ. Anh khoác áo mưa, ôm đèn pin nhảy lên thuyền trong màn đêm đặc quánh.
Đến nơi, anh đặt sản phụ nằm ngay trên sàn gỗ, kê thêm chiếc chiếu mỏng và mảnh áo khoác. Đỡ đẻ trong điều kiện thiếu thốn là một canh bạc. Đứa bé chào đời, khóc to, mạnh. Anh bảo: "May lắm rồi, em bé khỏe, mẹ cũng qua được”. Rồi anh ngồi bệt xuống đất, rút chai nước lọc uống một ngụm, mồ hôi lẫn nước mưa ướt sũng áo.
"Lúc ấy tôi không nghĩ gì nhiều, chỉ mong mình tới kịp. Vì mình chậm vài phút thôi là không chắc giữ được cả hai mẹ con” - anh nói, như thể đó là chuyện thường ngày.
Mà thực ra, đúng là chuyện thường ngày với anh. Có hôm đi khám bệnh cho cụ già ở Mó Nẻ, chiếc thuyền nhỏ bị mắc cạn, anh và người dân phải xuống nước kéo thuyền. Có hôm trời rét căm căm, nhà người bệnh ở tận dốc Dướng, đi xe không được, anh cuốc bộ cả tiếng đồng hồ. Đến nơi, cụ già chỉ nói được một câu: "Có anh Tươi đến, tôi yên tâm rồi”.
Câu nói đó, với anh, giá trị hơn mọi tấm bằng khen.
Không chỉ là bác sĩ
Ở xã Vầy Nưa, người ta không gọi anh là "bác sĩ Tươi" mà quen miệng gọi "anh Tươi", "chú Tươi" như người thân trong họ. Vì anh không chỉ đo huyết áp, tiêm phòng hay sơ cứu, mà còn bấm đinh gióng cửa, vác bao ngô, gùi rau giúp cụ già… Những ngày đầu về xã, anh vừa làm bác sĩ vừa làm y tá, hộ sinh, quản lý dược, kiêm luôn nhân viên truyền thông y tế. Sau này, dù trạm được biên chế đủ cán bộ, nhưng khi có dịch Covid-19, anh vẫn tự tay vác loa pin đi từng xóm. Mỗi sáng, tiếng loa lại vang giữa lòng hồ: "Bà con nhớ đeo khẩu trang, rửa tay thường xuyên. Ai chưa tiêm thì đăng ký với trạm...".
"Công việc gì cũng là vì người dân. Làm y tế vùng khó, việc không đợi người, miễn bà con khoẻ là mình yên tâm” - anh cười, như thể chuyện ấy đơn giản như cơm bữa.
22 năm gắn bó với vùng hồ, anh thuộc tên từng hộ nghèo, từng cụ già không con, từng đứa nhỏ hay lên cơn hen mỗi độ giao mùa. Những lần đến thăm bản khó, anh không chỉ mang thuốc mà còn trao ít gạo hoặc vài bộ quần áo cũ xin được từ người quen dưới xuôi. Còn cả những chuyến chở người bệnh đi cấp cứu giữa đêm, những lần đi xe máy cà tàng vượt hơn 30km về huyện. Không ai yêu cầu, chẳng ai chứng kiến. Bác sĩ Phạm Trọng Tươi không giữ lại cho mình một bản thành tích. Trên tường trạm y tế xã không treo một tấm bằng khen. Nhưng đối với người dân nơi đây, anh là một điểm tựa. Và với anh, có lẽ cách người dân gọi "bác sĩ của bản” mới là tấm huy chương lớn nhất.
Minh Vũ